Đỉnh núi tuyết tập 1-30

TÓM TẮT ĐỈNH NÚI TUYẾT

 


TABLE OF CONTENT

BẢNG CHÚ THÍCH 20

Tập 1: VỊ VUA TÀI GIỎI 29

TẬP 2: ĐẢN SINH 32

TẬP 3: NGƯỜI MẸ HIỀN 34

TẬP 4: THẦN ĐỒNG 36

TẬP 5: TẤM LÒNG BAO LA 38

TẬP 6: HOA SEN TINH KHIẾT 44

TẬP 7: VỊ VUA KHÔNG NGAI 47

TẬP 8: XUẤT GIA 50

TẬP 9: KHỔ HẠNH 58

Tập 10: THÀNH ĐẠO 60

TẬP 11: BÌNH MINH CHÁNH PHÁP 70

TẬP 12: TRỞ LẠI VƯƠNG XÁ 81

TẬP 13: THƯỢNG THỦ TĂNG ĐOÀN 90

TẬP 14: VỀ CA-TỲ-LA-VỆ 93

TẬP 15: TĂNG ĐOÀN HÙNG MẠNH 96

TẬP 16: HOA TRỜI RƠI RƠI 98

TẬP 17: BƯỚC CHÂN NI GIỚI 105

TẬP 18: NHỮNG NẺO ĐƯỜNG THIÊN LÝ 121

TẬP 19: NÚI THIÊNG 124

TẬP 20: VÂN DU TỰ TẠI 129

TẬP 21: THIÊN NHÃN ĐỆ NHẤT 132

TẬP 22: ĐẠI SỰ NHÂN DUYÊN 137

TẬP 23: VI DIỆU PHÁP 141

TẬP 24: ĐỆ NHẤT HÙNG BIỆN 147

TẬP 25: CHA MẸ KIẾP XƯA 157

TẬP 26: BÀI KINH TRÊN SÔNG 160

TẬP 27: KỶ CƯƠNG ĐỆ NHẤT 171

TẬP 28: IM LẶNG SẤM SÉT 181

TẬP 29: ĐỜI SỐNG THANH CAO 193

TẬP 30: TÍN NỮ VISAKHA 198


LỜI NGỎ TỪ HUYNH ĐỆ

Bộ truyện tranh song ngữ Việt – Anh “Đỉnh núi tuyết” bao gồm 100 tập, do Thượng tọa Thích Chân Quang biên soạn, dưới bút vẽ của họa sĩ Hữu Tâm. Bộ truyện kể về cuộc đời của Đức Phật một cách xác thực, đầy đủ và cuốn hút, với những chi tiết bí ẩn lần đầu tiên được hé mở.

Sản phẩm được phát hành tại Cty TNHH văn hoá Pháp Quang. Số 28 Hoàng Diệu Q.Phú Nhuận, TP.Hồ Chí Minh (Việt Nam). Điện thoại: 083.8462646 – 086.6837989 hoặc đặt hàng online tại trang web vidaothieng.com.

https://thichchanquang.com/chuyenmuc/cong-ty-phap-quang/truyen-tranh-dinh-nui-tuyet/

Mọi nhu cầu thỉnh mua các ấn phẩm của Công ty TNHH Văn Hóa Pháp Quang, quý vị vui lòng liên hệ với chúng tôi thông qua các cách sau:

1/ Địa chỉ liên hệ: 28 Hoàng Diệu, Phường 10, Quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh.

2/ Số điện thoại: 028 38462646

3/ Email: congtyphapquang@gmail.com

4/ Website: vidaothieng.com

NƠI HẠNH NGỘ CỦA NHỮNG TÂM HỒN

“Đỉnh Núi Tuyết” là bộ truyện dài tập (100 tập) sẽ tái hiện vừa chân thực, vừa thần kỳ, đầy cuốn hút về cuộc đời đức Phật. Tuy nhiên, “Đỉnh Núi Tuyết” không chỉ dừng lại ở cuộc đời đức Phật mà còn giúp cho chúng ta hiểu thêm nhiều cuộc đời của các nhân vật lịch sử (Các vị Thánh Tăng siêu phàm, các vị Vua Quan ngộ đạo, các vị Cư Sĩ mẫu mực) khác xoay quanh nhân vật trung tâm là đức Phật.

Có theo dõi từng tập truyện, chúng ta càng tăng thêm cảm xúc tôn kính đối với đức Phật đến tột cùng và sẽ hiểu tường tận hơn về những giáo lý của Ngài, cũng như hiểu rõ về mỗi cuộc đời, sự tu chứng của các vị Thánh Tăng trong thời đức Phật rất thú vị. Trong đó rất nhiều điều khiến cho chúng ta phải suy ngẫm, bàn bạc, liên hệ thực tế, rút bài học cho bản thân, thầm ước mơ, v.v…

Từ đó chúng ta sẽ xác định lại một hướng đi vững vàng, chân chính cho cuộc đời mình. Cho nên, chúng ta hãy đọc hết và giới thiệu với bạn bè, người thân, thậm chí với cả người ngoài đạo Phật, hay người có cảm tình với đạo Phật để cùng nhau đọc, hầu phát huy tinh thần từ bi, trí tuệ và hòa bình mà đức Phật đã truyền trao đến với mọi người.

“Đỉnh núi tuyết” sẽ giúp bạn tăng thêm lòng tôn kính Đức Phật và giải mã được cuộc đời của bạn. Bạn là ai? Bạn từ đâu đến? Bạn đang ở vị trí nào trên thế gian này? Bạn sẽ đi về đâu??? Tập truyện tranh này thật độc đáo và đặc sắc vì vừa làm sống lại một cuộc đời bất tử Đức Phật vừa là một bài học đạo lí lớn lao giúp cho bạn được khơi sáng khai thông tâm linh của bạn. Bạn hãy đọc, hãy giới thiệu với bạn bè để cùng nhau đọc, hãy trao tặng cho người yêu, cho những người thân của bạn tập truyện tranh “Đỉnh núi tuyết”. Và trong tủ sách của con bạn đừng thiếu bộ truyện tranh “Đỉnh núi tuyết” này.

“Đỉnh núi tuyết” sẽ gặp gỡ được mọi tâm hồn.

Với con trẻ sẽ là những trang văn tuyệt mỹ. Với học sinh sẽ được thêm bài học Anh văn vốn từ vựng phong phú của nhiều lĩnh vực. Với người nông dân sẽ biết làm thế nào để mùa màng được bội thu.Với người buôn bán sẽ biết cách để được mua may bán đắt. Với người giáo viên sẽ củng cố thêm phương pháp sư phạm nâng cao thêm tay nghề. Với cán bộ, nhân viên Nhà nước sẽ có thêm kinh nghiệm đối nhân xử thế và hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc hơn xưa…

“Đỉnh núi tuyết” sẽ là người bạn đồng hành tinh tế lịch lãm tuyệt vời với mỗi chúng ta: người ngoài đạo Phật, người cảm tình đạo Phật, người cư sĩ tại gia, người tu sĩ chốn Già lam…

Quả thật, “Đỉnh Núi Tuyết” sẽ là nơi hạnh ngộ của những tâm hồn biết yêu cái đẹp, biết yêu đạo lý và có lý tưởng hướng về con đường giác ngộ giải.

“Chưa xem Đỉnh Núi Tuyết rơi

Coi như mất nửa cuộc đời qua không

Ai chưa từng ngắm dòng sông

Làm sao hiểu biển mênh mông dường nào

Chưa từng đêm đến ngắm sao

Biết gì vũ trụ thì thào yêu thương

Chưa từng nhìn nắng tan sương

Làm sao tắm ánh chiêu dương rực hồng

Chưa từng mơ ước đại đồng

Trái tim đâu mở tận cùng vô biên

Hãy quỳ xuống giữa bình yên

Quên đi tủi nhục muộn phiền xót xa

Dâng niềm tôn kính thiết tha

Nguyện đi theo mãi Phật Đà thiêng liêng”…


BẢNG TÓM TẮT CÁC TẬP

Tập 1: VỊ VUA TÀI GIỎI

Làm thế nào để một đất nước luôn phồn thịnh thanh bình? Làm sao để nhân dân có được một cuộc sống ấm no? Phải làm gì để hạn chế nạn cướp bóc hoành hành? Và làm thế nào để luôn giữ mối hòa khí với lân bang để tránh gây chiến tranh tang tóc?

Hãy cùng đón đọc tập một của bộ truyện tranh Đỉnh Núi Tuyết – Vị Vua tài giỏi. Tập truyện kể về công cuộc xây dựng và quản lý đất nước của Vua Tịnh Phạn (Cha của Thái Tử Tất Đạt Đa – Tiền thân của Đức Phật Thích ca Mâu Ni). Ông là một vị vua vô cùng tài giỏi và rất thương dân cùng với Hoàng Hậu Maya nhân hậu trị vì đất nước Sakya xinh đẹp. Đó là một vị vua với võ thuật cao cường, đầy trí tuệ, uy nghiêm nhưng cũng rất nhân từ, gần gũi. Hãy cùng tìm hiểu hình ảnh vị vua uy nghiêm trên ngai vàng giải quyết chính sự và hình ảnh vị vua gần gũi khi tự tay cày đất vào lễ Hạ điền qua tập một của Bộ truyện tranh Đỉnh Núi Tuyết do TT. Thích Chân Quang biên soạn.

Tập 2: ĐẢN SINH

Hoàng Hậu Maya sắp đến kỳ sinh nở, Vua Sudhodana đã cho chuẩn bị chu đáo tất cả mọi việc cho Hoàng Hậu lâm bồn. Theo truyền thống, khi sắp lâm bồn thì Hoàng Hậu phải về quê ngoại. Đường đi xa xôi khó khăn, và phải vượt qua khu rừng Lumbini rậm rạp, nhiều đầm lầy và thú dữ. Vua Tịnh Phạn quyết định sẽ đưa Hoàng Hậu về đến tận Davadaha rồi mới quay lại kinh thành.

Trong khi đó, quân phiến loạn của bộ tộc Tamba đang ráo riết chuẩn bị gươm giáo, binh khí và tập luyện quân sự kỹ lưỡng cho kế hoặc tấn công kinh thành Kapilavatthu. Vậy kinh thành Kapilavatthu sẽ vắng bóng nhà Vua? Một cơ hội quá tốt để đánh chiếm kinh thành của Sakya cho quân Tamba. Chuyện gì sẽ xảy ra cho kinh thành Kapilavatthu của Sakya? Và Hoàng Hậu Maya sẽ ra sao trong chuyến đi về quê ngoại để chuẩn bị cho Thái Tử ra đời?

Tập 3: NGƯỜI MẸ HIỀN

Hoa trời rơi xuống nâng bước chân, mưa trời gột rửa thân sạch sẽ, chim thú đua nhau cùng đón mừng. Thái Tử Siddhatha ra đời trong sự vui mừng của tất cả mọi người trên đất nước Sakya. Thế nhưng trong buổi lễ đặt tên cho Thái Tử, Hoàng Hậu Maya đột ngột qua đời. Bầu không khí buồn bã phủ trùm khắp Sakya, thương tiếc cho một vị Hoàng Hậu nhân đức đã về cõi trời.

Xin mời quý vị và các bạn cùng đón xem tiếp tập 3 của bộ truyện tranh Đỉnh Núi Tuyết – Người mẹ hiền. Hoàng Hậu Maya qua đời, Công Nương Pajapati tình nguyện ở lại Kapulavatthu để chăm sóc cho Thái Tử mới sinh. Pajapati thương yêu Thái Tử như chính con ruột của mình, chăm sóc hết sức chu đáo. Ngoài ra, Công Nương còn phụ giúp Vua coi sóc công việc của hoàng cung rất chu đáo vẹn toàn giúp Vua Sudhodana chuyên tâm lo việc đất nước. Vào một đêm khi Đức Vua đi vắng, trong kinh thành xuất hiện nhiều kẻ lạ mặt có giấu vũ khí. Tướng quân Bashura – người giữ kinh thành cũng đã dẫn quân đi xem xét biến động ở Tuyết Sơn. Tính mạng Pajapati và Thái Tử đang bị đe dọa. Pajapati im lặng nhìn Thái Tử đang say giấc ngủ, bỗng có tiếng bước chân, hai tên thích khách vung đao lên… Lúc đó, trong khu rừng, nhà Vua cũng đang bị phục kích. Vậy tình hình hoàng cung sẽ ra sao? Pajapati và Thái Tử liệu có an toàn? Nhà Vua có thể trở về kịp để cứu con trai hay không? Kính mời mọi người cùng đón đọc.

Tập 4: THẦN ĐỒNG

Trải qua nhiều biến cố, năm nay Thái Tử Siddhatha cũng đã sáu tuổi. Nhà Vua cho mời năm vị thân giáo sư về Hoàng cung để dạy cho Thái Tử. Thế nhưng cả năm vị thân giáo thọ sư và nhà Vua đều bị bất ngờ bởi khả năng tiếp thu của Thái Tử Suddhatha, nhiều khi còn bị bắt bí bởi những câu hỏi không biết đường nào trả lời.

Và cũng trong tập này, lần đầu tiên Thái Tử Suddhatha biết đến tĩnh tọa và cảm thấy rất yêu thích. Hằng đêm, nhà Vua Sudhodan, Hoàng Hậu Pajapati và Thái Tử Siddhatha cùng nhau ngồi tĩnh tọa lắng tâm trong yên tĩnh.

Thái Tử thông minh, học đâu biết đó, học một biết mười, võ nghệ cao cường, đã có thể bắn tên trúng đích từ rất xa. Trong một buổi đi thăm rừng Lumbini với các vị giáo thọ sư, khung cảnh thật đẹp, có chú nai vàng đang gặm cỏ. Chợt một mũi tên bay vút hướng về phía chú nai, Thái Tử cũng giương cung…

Tập 5: TẤM LÒNG BAO LA

Thời gian thấm thoát, đã trải qua sáu năm nữa, Thái Tử Siddhatha cũng đã đến tuổi mười hai. Sau sáu năm học tập cùng năm vị giáo thọ sư, Thái Tử đã tinh thông nhiều môn, võ nghệ cao cường và bắt đầu học tập cách quản lý đất nước. Nhìn cảnh muôn dân còn nhiều người đói khổ, sự phân biệt giai cấp còn nặng nề, Thái Tử rất đau lòng.

Vào một ngày đẹp trời sau mùa mưa, Vua Sudhodana dẫn Thái Tử Siddhatha ra ngoại thành tham gia lễ Hạ điền. Nhà Vua đích thân xuống ruộng, cày những đường cày đầu tiên, cầu chúc cho một năm mùa màng tươi tốt. Mọi người ai cũng vui mừng vỗ tay cổ vũ mà không để ý Thái Tử đã lẳng lặng rời khỏi đám đông đi về phía gốc cây to và ngồi tọa thiền. Ánh mặt trời nghiêng về phía tây, tàng cây che bóng mát cho Siddhatha bỗng nhiên ngả ngọn về phía tây để che mát cho Thái Tử. nhà Vua và tất cả mọi người sửng sốt nhìn. Trước khung cảnh ấy, nhà Vua chợt chắp tay cúi chào chính con trai mình. Tất cả mọi người cũng chắp tay cúi chào.

Kính mời quý vị và các bạn cũng đón xem tập 5 – Tấm lòng bao la để biết thêm những câu chuyện thú vị và lạ kỳ xảy ra xung quanh vị Thái Tử kiệt xuất của đất nước Sakya thanh bình.

Tập 6: HOA SEN TINH KHIẾT

Vậy là đã mười năm đã trôi qua kể từ ngày năm vị giáo thọ sư nhận lời dạy dỗ Thái Tử Siddhatha. Họ đã làm hết phận sự của mình và xin phép được trở về quê hương. Ngày chia tay các vị giáo thọ sư, Thái Tử buồn khôn xiết.

Vào một ngày nọ, gia đình hoàng thân Amitodhana đến thăm hoàng cung của Kapilavatthu. Nhìn thấy Thái Tử khỏe mạnh và đã khôn lớn, Hoàng thân đề nghị Vua Sudhodana cưới vợ cho chàng nhưng chàng không đồng ý. Thế nhưng theo truyền thống, con cái phải vâng lời cha mẹ. Kinh thành Kapilavatthu nô nức vui mừng chuẩn bị hôn lễ của Thái Tử và Công Nương Yashodara xứ Devadaha. Thái Tử không muốn lấy vợ nhưng lại không thể để cha mẹ buồn lòng. Vậy công chúa Yashodara sẽ ra sao khi bước chân vào hoàng cung của Sakya?

Để trở thành một vị Vua, Thái Tử phải kết thân với con trai các quan lại trong triều. Trong những lần chơi chung với họ, Thái Tử luôn bị thua trong các trò chơi và yếu thế hơn hẳn. Mọi người nói rằng những lời đồn về Thái Tử trước nay chỉ là những lời đồn vô căn cứ hoặc do Thái Tử được nuông chiều quá mà kém cỏi dần.

Tập 7: VỊ VUA KHÔNG NGAI

Thái Tử Siddhatha năm hai mươi tuổi, thân người cao lớn, đẹp đẽ như thiên thần. Kinh thành Kapilavatthu luôn nhộn nhịp, tấp nập người buôn kẻ bán, mọi người sống yên vui. Vua Sudhodana đã lớn tuổi nhưng mọi việc quản lý đất nước giờ đây đã có Thái Tử trợ giúp.

Đêm xuống, ánh trăng chênh chếch phía trời xa, hai người bịt mặt cưỡi ngựa tiến vào cổng thành Kapilavatthu. Hai người lạ mặt đưa một thứ gì đó cho viên quan canh giữ cổng thành rồi tiến thẳng vào một căn phòng bí mật trong cung điện, ở đó có một người bí mật trùm khăn kín người đang chờ sẵn. Ba người thì thầm chuyện gì đó rất bí mật. Xong việc, hai người lạ mặt rời đi. Trước khi rời đi, một người hỏi người bạn hữu của mình: “Hiền hữu có biết chúa công thực sự là ai không?” Người kia trả lời: “Đó là một bí mật tuyệt đối. Ai biết bí mật của chúa công thì phải tự sát để giữ bí mật này, còn ai biết mà tiết lộ sẽ bị xử tử cả gia đình…” Trời đêm khuya dần, bóng hai người cưỡi ngựa dần lẩn khuất trong màn đêm…

Tập 8: XUẤT GIA

Trời đã vào thu, việc nước cũng ổn định. Đất nước Sakya xinh đẹp sống trong an bình, ấm no. Mặc dù Đức Vua Sudhodana đã lớn tuổi nhưng nay đã có Thái Tử quán xuyến việc nước, Đức Vua rất yên tâm, chỉ có duy nhất một điều khiến nhà Vua phiền muộn.

Vào một ngày, Thái Tử đang trầm ngâm suy nghĩ, bỗng một cung nữ chạy đến… Cung điện mùa mưa ngập tràn trong ánh sáng. Sau bữa tiệc linh đình, mọi người chìm sâu vào giấc ngủ. Thái Tử lặng lẽ bước vào phòng nhìn Yashodara và Rahula đang chìm sâu vào giấc ngủ, nét mặt trầm ngâm.

Trong đêm khuya, bỗng có bóng người xuất hiện tại chuồng ngựa: “Giờ này trời tối, nhân gian rất mờ mịt, Người định đi đâu?”

“Chính vì trời tối, vì nhân gian mờ mịt ta phải đi tìm ánh sáng cho mọi người…”

Trên bầu trời, Quỷ vương xuất hiện: “…chỉ bảy ngày nữa ngài sẽ được tôn lên làm Vua… và ba mươi ngày nữa ngài sẽ được tôn lên làm Chuyển Luân Thánh Vương, Vua của các vị Vua. Ngài đừng đi, hãy ở lại…” Vang vọng trong màn đêm tĩnh mịch câu trả lời “Ta biết, nhưng ta không màng, ngươi đừng ngăn cản ta”. Cổng thành mở, bóng hai người phi vút về phía nam, tất cả cảnh vật như bỏ lại phía sau.

Dòng sông Anoma cuồn cuộn chảy. Trên bờ, một thanh niên cường tráng đẹp như tranh vẽ dưới ánh trăng, tay cầm dao giơ lên trời, từng lọn tóc trôi theo dòng nước. Người tùy tùng trung thành cúi đầu mà nước mắt không ngừng rơi…

Tập 9: KHỔ HẠNH

Vậy là Thái Tử Siddhattha của đất nước Sakya đã xuất gia làm một vị sa môn đi cầu đạo tìm ánh sáng giải thoát. Trong bộ y cũ màu nâu, Người đi về phía nam. Trên đường đi, Ngài được người dân cúng dường thực phẩm để ăn, khát nước Người uống nước suối, cứ thế, Người đi tìm người thầy cho Người được tu và học trong luật và pháp để đi đến giải thoát.

Tại kinh thành Kapilavatthu, Công Nương Yashodara lúc nào cũng mong ngóng được đi cùng Thái Tử, thế nhưng thương cho Rahula còn quá nhỏ, nàng chỉ biết ngậm ngùi dặn dò đội thám tử ngầm bảo vệ cho Người.Năm anh em nhà Kondanna cũng đã xuất gia và được cử đến cùng tu và chăm sóc cho Sa môn Gotama.

Sau khi tu học cùng với đạo sư Uddaka, Sa môn Gotama đã chứng đạt trạng thái phi tưởng phi phi tưởng nhưng vẫn chưa trả lời được câu hỏi vướng mắc trong lòng, Người quyết định tu khổ hạnh mong tìm ra chân lý.

“Có ai đó đang nằm kìa!” một đứa bé chăn bò hét lên khi thấy một vị Sa môn gầy rạc như bộ xương đang nằm bất động.

“Vị Sa môn này đã chết”

“Không, Sa môn này chưa chết nhưng cũng gần chết”…

Trong khu rừng có tiếng cãi nhau. Sujatha đang nói chuyện với năm anh em nhà Kondanna rất gay gắt trong rừng. Cô liều mình chạy vô gặp Sa môn Gotama để khuyên Người ăn uống trở lại liền bị năm anh em nhà Kondanna kéo lại…

Xin mời quý vị và các bạn cùng đón xem tập 9 – Khổ hạnh để xem vị Sa môn Gotama liệu có trải qua được lần sinh tử này không.

Tập 10: THÀNH ĐẠO

Sau một thời gian dài tu khổ hạnh, Sa môn Gotama bây giờ người gầy rạc như bộ xương, tấm y mặc trên người dường như cũng teo nhỏ lại. Sức khỏe suy yếu trầm trọng, tóc rụng từng mảng, bụng Ngài lép xẹp, mặt Ngài hóp lại gần như đầu lâu khô, chỉ còn đôi mắt sáng quắc. Sa môn bắt chân kiết già nhưng thân Người đổ gục xuống đất không ngồi thẳng lên được, trông như một bộ xương chỉ còn bọc chút da xung quanh…

Năm anh em Kondanna bất mãn với việc làm của Sa môn Gotama nên lặng lẽ bỏ đi. Trong màn đêm yên tâm giữa chốn rừng núi hiu quạnh, bỗng có tiếng đàn réo rắt trên hư không rồi từ từ đến gần cây Assatha. Ba người con gái đẹp tuyệt trần từ đâu bay xuống múa hát lả lơi. Các cô tiến sát đến bên một vị Sa môn đang ngồi tĩnh tọa, thân thể tỏa ra hương thơm kỳ diệu, thân hình đầy gợi cảm. Trong màn sương mờ ảo, Người mở mắt ra nhìn… Một hồi lâu sau, trùng trùng những hình hài yêu ma xuất hiện. Hàng trăm ngàn mũi tên phóng vút về hướng cây Assatha, sấm chớp vang dội, những tên ma quân cầm gươm chém lăng xả vào người vị Sa môn…

Kính mời quý vị và các bạn cùng đón xem những diễn biến tiếp theo của Sa môn Gotama sau sáu năm khổ hạnh tại làng Uruvela trong tập 10 – Thành đạo.

Tập 11: BÌNH MINH CHÁNH PHÁP

Đức Phật đã chứng đạo dưới cội cây Assatha, trở thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, bậc tôn kính nhất trên đời. Tại vườn nai, Người đã hóa độ cho năm người đệ tử đầu tiên của mình – năm anh em nhà Kondanna với bài Pháp đầu tiên: Tứ Diệu Đế.

Tại kinh thành Benares bên dòng sông Hằng, trong sân một ngôi nhà giàu có một chàng trai đang ngồi ủ rũ. Trong sảnh nhà, các vũ nữ đang múa hát rộn ràng, mọi người say sưa ăn uống, hòa cùng tiếng đàn điệu múa. Cảm thấy không khí ngột ngạt, chàng trốn ra ngoài và đi lang thang trong khu rừng. Bỗng có tiếng nói vang lên: “Này Yasa, hãy đến đây! Nơi đây không có đau khổ, nơi đây không có vô nghĩa, nơi đây không có trống rỗng” … Và từ cuộc gặp gỡ này, nhân gian sẽ có thêm một vị Alahan. Trong khi đó, cha của Yasa và người hầu đi tìm chàng khắp nơi.

Mời quý vị và các bạn đón xem tập 11 – Bình minh Chánh Pháp, cùng tìm hiểu về những điển tích chứng quả của các vị đệ tử đầu tiên của Tăng đoàn cùng những lời Pháp nhủ vi diệu của Đức Như Lai.

Tập 12: TRỞ LẠI VƯƠNG XÁ

Tại một ngôi làng nọ, các trai làng nối nhau gánh những chú dê đang bị trói đến một tế đàn giữa một bãi đất trống. Mọi người tập trung vây quanh khu tế đàn. Những chú dê trắng bị kẹp đầu vào hai thanh gỗ và chờ bị cắt cổ. Một giáo sĩ cầm đuốc đến vừa đọc thần chú vừa châm lửa đốt. Bỗng một giọng nói trầm ấm vang lên: “Này các dân làng, có lẽ các vị thần không dám nhận tế lễ với ba mươi con dê bị giết như thế…”

Mọi người giật mình quay lại…

Phật quay trở về thăm ngôi làng Uruvela ngày xưa, tất cả mọi người đều rất vui mừng chạy ra đón Người. Mặt trời về chiều, trên ngọn đồi Sira, từng lời Pháp của Phật như rung chuyển đất trời: “Này các Tỳ kheo, Tất cả thế gian đều đang bốc cháy trong ngọn lửa vô thường, từng thân người rồi sẽ già nua, bệnh hoạn và già chết. Những ngôi nhà đẹp rồi sẽ lụi tàn, những vương quốc lớn rồi cũng suy vong, những gì chúng sinh đắm luyến rồi cũng tan hoại. Này các Tỳ kheo, khi nhìn thấy một ngọn lửa, hãy nhìn thấy cả thế gian đang rực cháy…”

Kính mời quý vị và các bạn cùng chiêm nghiệm những lời dạy của Đức Phật khi Người hóa độ cho ngôi làng Uruvela cùng những nơi Người đi qua và cuộc hội ngộ sau tám năm với Vua Bimbisara tại thành Vương Xá trong tập 12 – Trở lại Vương Xá.

Tập 13: THƯỢNG THỦ TĂNG ĐOÀN

Tại một khu rừng nọ, một nhóm người mang nhiều vật phẩm đi vào khu vực có nhiều chòi tranh. Vào sâu bên trong thì thấy tất cả tu sĩ đều khỏa thân và thực hành các thế khổ hạnh. Một tu sĩ bước tới và gọi mọi người đến đảnh lễ một vị tu sĩ khác, phong thái tỏ vẻ rất cao siêu. “Này các gia chủ cư sĩ, ai hết lệ thuộc vào vật chất của cõi trần gian này, đó là người sẽ không còn tái sinh đau khổ… Muốn chuyển hóa hết nghiệp phải dùng khổ hạnh đày đọa thân xác…” Vị tu sĩ đó là ai? Một giáo phái mới với một con đường giải thoát mới sao?

Trong khi đó tại kinh thành Kapilavatthu, Vua Sudhodana đang rất lo lắng sau khi nghe Vua Nanda báo cáo tình hình của các thám tử. Hầu hết các thám tử được phái đi bảo vệ Đức Phật đều tự ý xuất gia, các đoàn sứ giả được triều đình gửi đi thỉnh mời Đức Phật về thăm Sakya cũng lặng lẽ xuất gia rồi ở lại tịnh xá luôn, lực lượng bảo vệ bây giờ không còn mấy người. Khi không còn lực lượng thám tử tinh nhuệ bảo vệ, liệu Đức Phật có gặp những nguy hiểm gì không? Trong khi đó luôn có những toán giết thuê được sự chỉ đạo của nhiều kẻ có dã tâm luôn rình rập khu rừng trúc…

Tại một nơi khác, trong một ngôi làng thanh bình tên Upatissa, phía bắc thành Vương Xá đang tổ chức hội chợ rất náo nhiệt, buôn bán tấp nập, người xem đông đúc. Trong dòng người đông đúc ấy, xuất hiện hai thanh niên dáng vẻ khỏe mạnh, đẹp đẽ nhưng khuôn mặt đượm buồn. Một ngày, đôi bạn thân quyết tạm biệt gia đình để đến với du sĩ Sanjaya cầu đạo, thế nhưng lòng hai người vẫn cảm thấy bất an. Bỗng một ngày, trong khi đang đi thơ thẩn nhìn ngắm đường phố, Sariputta chợt như bị hút cả thân tâm khi nhìn thấy bóng dáng thong thả thoát tục của một vị sa môn áo nâu phủ trùm kín người…

Tập 14: VỀ CA TỲ LA VỆ

Từ khi biết Phật đã thành Đạo, vì lòng mong mỏi con, quốc vương Sudhodana đã nhiều lần cử các đoàn sứ giả đến thành Rajagaha để gửi lời mời Đức Phật về thăm quê hương. Tuy nhiên, tất cả đều không nói gì, lặng lẽ xuất gia rồi ở lại tịnh xá luôn. Công chúa Sundari gợi ý phụ vương giao cho Kaludayi có tài ăn nói và đã có vợ con để đi thỉnh hoàng huynh về.

Kết thúc “Đỉnh núi tuyết tập 13” là hình ảnh Kaludayi đến tịnh xá của Đức Phật và thỉnh gặp ngài. Liệu Kaludayi có giống các phái đoán trước là chỉ dám xin được xuất gia, làm đệ tử của Như Lai mà không thể nói lên lời thỉnh cầu?

Trong những trang truyện đầu của tập 14, độc giả sẽ thấy một sự lặp lại, đó là trước uy đức của Đức Phật, Kaludayi cũng giống như các sứ giả khác, chỉ có thể mở lời xin xuống tóc. Những lời thỉnh Đức Phật về thăm quê vẫn đến được với ngài. Vậy ai là người đã nói lên nỗi mong nhớ của những người thân đang chờ đợi Người từng ngày?

Tập 14 sẽ hé mở cho người đọc điều này với những chi tiết dẫn dắt lôi cuốn. Tập “Về Ca Tỳ La Vệ” của bộ truyện “Đỉnh núi tuyết” còn đưa đến cho người đọc rất nhiều tình huống mới mẻ và hấp dẫn.

Các vị A La Hán giống nhau và khác nhau trên những phương diện nào? Tại sao lại tạo nên sự giống và khác đó? Một người ăn xin với chiếc chân bị què, có một con chó gầy ốm ở bên cạnh và một người bị phỏng nặng thì họ đã bị nghiệp nhân quả gì? Còn một người kiếp trước là một phú thương giàu sang, hay giúp đỡ người nghèo và có cúng dường một vị độc giác Phật nhưng do một lần nổi sân hận, lại giết một người hầu gái thì kiếp này họ nhận quả báo như thế nào? Tại sao Đức Phật lại quyết định về thăm Kapilavatthu vào sau mùa mưa? Khi Đức Phật về lại cung điện thành Kapilavatthu, những chuyện gì sẽ xảy ra? Khi người con Rahula đến gặp Đức Phật và thưa xin phụ thân kho tàng. Vậy kho tàng đó có phải là tài sản mà khi xưa, quốc vương Sudhodana có ý để lại cho Thái Tử Siddhatha không? Quốc vương cũng đã biết được người vợ yêu dấu Maya của mình đang ở chốn nào. Vậy Hoàng Hậu Maya đang ở đâu?

“Đỉnh Núi Tuyết” tập 14 sẽ giải đáp tất cả những câu hỏi này cho độc giả. Cầm trên tay tập truyện này, người đọc sẽ còn được trải lòng mình trong những phút giây gặp gỡ đầy xúc động sau bao năm xa cách giữa Đức Phật với những người thân yêu.

Khi lật đến những trang sách cuối của tập 14, người đọc sẽ thấy vô cùng hứng khởi trước phép thần thông nhiệm màu của Đức Phật. Lần đầu tiên Đức Phật thể hiện thần thông trước đông chúng sinh như vậy. Và một bất ngờ lớn sẽ được tiết lộ ở cuối truyện.

Tập 15: TĂNG ĐOÀN HÙNG MẠNH

Đức Phật sau tám năm cầu đạo và chứng Thánh quả, trở thành vị Thầy của cả trời người, Người đã trở lại Kapilavatthu thăm gia đình và độ cho hoàng gia Gotama. Rahula đã được Phật cho theo học Sariputta và trở thành vị Sadi đầu tiên trong Tăng đoàn. Vua Nanda cũng xuất gia ngay trong ngày hôn lễ, thế nhưng ngài vẫn còn nhiều buồn phiền, vương vấn nơi thế tục. Vương quyền được trao cho Mahanama – con của Hoàng thân Atomidhana. Các thanh niên hoàng tộc Gotama cũng rủ nhau đến xin xuất gia với Thế tôn, và sau bài Pháp của Người, Tăng đoàn đã có thêm những vị sa môn trẻ. Vị Vua mới gánh vác trọng trách quản lý đất nước một cách thật bất ngờ, thanh niên trong hoàng tộc cũng đã đi xuất gia và không màng đến việc quản lý đất nước nữa. Đất nước Sakya rồi sẽ ra sao? Và liệu việc Đức Thế Tôn xuất gia cho Vua Nanda trong khi ngài chưa quên được những vọng tưởng trần tục có phải là một quyết định sáng suốt? Tôn giả Nanda liệu có thể chứng ngộ giải thoát hay không?

Trong tập truyện 15 này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu cách quán thân vô thường và quán niệm hơi thở qua lời dạy của Đức Phật, cuộc sống này, thân thể này vô thường ra sao hoặc biết được sở thích hay nằm soãi chân cao về phía người khác sẽ tạo nghiệp gì… Cũng trong tập này, tôn giả Pinana đã sử dụng thần thông cho một số người dân thấy và ngài đã ôm bình bát chào chư Tăng rồi ra đi về phương bắc, nơi có những ngọn núi quanh năm tuyết phủ.

Tập 16: HOA TRỜI RƠI RƠI

Trong các tập trước, chúng ta đã biết Rahula và Vua Nanda đã xuất gia theo Phật. Đêm xuống, bên bìa rừng, Rahula đang tập luyện võ thuật, một vị tỳ kheo chợt nhìn thấy và không hài lòng.

Tại kinh thành Savathi xuất hiện năm người phụ nữ tuy ăn mặc quê mùa nhưng toát lên vẻ cao quý. Năm người phụ nữ bước vào một tòa nhà lớn, vị chủ nhà sang trọng vội cúi lạy. Người phụ nữ dáng vẻ cao quý nhất căn dặn cấm không cho ai hỏi han nói ra nói vào gì về chuyện này. Cô ở lại kinh thành Savathi với một kế hoạch bí mật. Trong khi đó, Sudatta cầu kiến đại vương Pasenadi để nhờ Ngài tác động nhằm mua được khu vườn yêu thích của Thái Tử Jeta. Điều này khiến Thái Tử Jeta không vui.

Người phụ nữ có dáng vẻ cao quý đó là ai? Tại sao phải xuất hiện bí mật như vậy? Và mục đích của cô ta khi đến gặp Sudatta và việc Sudatta tìm mọi cách để mua lại khu vườn yêu thích của Thái Tử Jeta có liên quan gì đến nhau?

Cũng trong tập này, chúng ta sẽ tìm hiểu nguyên nhân tại sao có những chúng sinh chịu đau đớn tột cùng khi bị thân thể lúc nào cũng bị lửa bao bọc, thân thể bị giòi bọ đục khoét. Ngoài ra, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu có bao nhiêu cõi khác ngoài cõi người này và những bậc chưa chứng được A La Hán sẽ sinh về đâu?

Mời quý vị và các bạn cùng thỉnh tập 16 – Hoa Trời Rơi Rơi của Bộ truyện tranh Đỉnh Núi Tuyết để tiếp tục dõi theo bước chân xuất thế cao siêu của Đấng Giác Ngộ.

Tập 17: BƯỚC CHÂN NI GIỚI

Đức Phật về giáo hóa tại tinh xá Jevatana cũng được một khoảng thời gian nhưng Vua Pasenadi vẫn chưa đến đảnh lễ Phật. Thế nhưng vì không muốn làm mích lòng cả các giáo sĩ Bà La Môn lẫn Tăng đoàn của Thế Tôn nên nhà Vua quyết định đến gặp Thế Tôn để tìm hiểu Giáo Pháp của Người. Khi gặp Vua Pasenadi, Thế Tôn đã thuyết giảng về nghiệp của thân khẩu ý, Tứ Thánh Quả,… Vua Pasenadi đã quy y Thế Tôn sau khi nghe Người nói đừng nên xem thường một Thái Tử nhỏ tuổi, vì sau này vị đó sẽ lên làm Vua.

Bên dòng Rohini trơ đá vì khô cạn, một toán người đang đắp bờ tát nước về ruộng xứ Koliya. Chợt từ bờ bên kia một nhóm nông dân la lên: “Sao các người lại giành tát hết nước của xứ Sakiya chúng tôi?”… Hai bên bờ sông, người của hai xứ kéo tới ngày một đông, lời qua tiếng lại ngày càng nặng nề, và rồi họ tràn xuống sông. Một trận chiến nổ ra. Tiếng la hét, tiếng binh khí, tiếng khóc than vang lên khắp nơi. Dòng sông bị quẫy tung tóe, máu đã đổ xuống đỏ cả một khúc sông. Chợt có tiếng vang trên hư không và bóng một người dáng vẻ uy nghiêm hiện ra lơ lửng trên không…

Quý vị đón xem tập 17 cũng sẽ chờ đón sự xuất hiện của chúng tỳ kheo ni đầu tiên. Cuộc sống vất vả lay lắt, luôn phải phụ thuộc vào hoàn cảnh sống và xin ăn qua ngày, những nguy hiểm rình rập xung quanh người nữ, liệu những tỳ kheo ni có theo nổi con đường xuất gia cầu đạo? Hãy đón xem và tìm hiểu.

Tập 18: NHỮNG NẺO ĐƯỜNG THIÊN LÝ

Tại một làng quê nọ, từ xa có bóng dáng hai vị sa môn đang đi khất thực, một nam một nữ. Bỗng vị sa môn nam cất lời nói: “Này Bhadda, chúng ta đã phát nguyện xuất gia trên đường đi tìm đạo sư, ai cũng biết chúng ta đã từng là vợ chồng, nhưng trên đường lang thang thiên lý đi khất thực mà vẫn đi cạnh bên nhau như thế này thật là bất tiện. Mọi người sẽ dị nghị rằng sa môn gì mà vẫn sống đời vợ chồng…”

Vị sa môn nữ buồn rầu trả lời: “Thiếp biết Ngài không muốn chúng ta đi tìm đạo cạnh bên nhau như thế này, thế nhưng thân người nữ thật là nguy hiểm nếu phải đi một mình…” Hai vị sa môn đó là ai mà có vẻ khác thường như vậy? Liệu họ có tìm được đến với Phật khi trước kia họ đã từng là vợ chồng hay không?

Trong khi đó ở Vesali, hạn hán đang kéo dài, đồng ruộng khô cháy, lúa mất trắng, nạn đói đe dọa, bệnh dịch xuất hiện. Người dân lê lết xin ăn rất khổ sở, cái chết đang gieo rắc khắp nơi, một màu tang thương đang phủ trùm cả đất nước. Nguyên nhân tại sao họ lại gặp đại nạn này? Có phải vì thái độ thờ ơ khi Đấng Giác Ngộ đến với đất nước họ nhưng họ đã không tiếp đón chu đáo mà phước bị tổn hại nặng nề? Vậy phải làm sao để đất nước thoát khỏi cảnh khó khăn này? Hay sẽ có một đất nước sẽ bị diệt vong?

Cũng trong tập này, sa di Rahula đã bị Đức Phật rầy sau khi có một tỳ kheo vào mách Phật rằng sa di Rahula có lẽ ỷ lại Thế Tôn nên rất khó dạy, hay quanh quất nói dối, đi chỗ này lại nói đi chỗ khác, hỏi gì cũng chối, nhiều đêm còn bỏ đi chơi bên ngoài…

Tập 19: NÚI THIÊNG

Trong tập 18, tỳ kheo Nagasalama đã chấp ý mình, bỏ Thế tôn một mình trên đường đi khất thực và bị một nhóm sát thủ tấn công. Trong tập 19, theo sự sắp xếp của tôn giả Moggalana, tỳ kheo Meghiya thay thế tỳ kheo Nagasalama làm thị giả cho Đức Phật nhưng không lâu sau đó, tỳ kheo Meghiya lại tiếp tục bỏ Phật một mình trên đường lên hang núi Indasala an cư mà về an cư tại khu vườn xoài của kỹ nữ Ambapali, tỳ thiếp Vua Bimbisara. Đức Phật một mình an cư trên hang núi, không có thị giả hầu cận, không tăng chúng bảo vệ và các thế lực ngoại đạo hung ác thì lúc nào cũng nhăm nhe tìm cách hãm hại Người.

Trong khi đó, để tránh việc các tân tỳ kheo ở nhà vì thế mà buông lung tu tập, tôn giả Moggalana đã mời tôn giả Upali – Đệ nhất trì giới thuyết giảng về những điều nên làm và không nên làm đối với một tỳ kheo trong ba tháng Đức Phật an cư tại hang núi Indasala.

Một ngày, tỳ kheo ni Sujatha dẫn một đoàn tỳ kheo ni đi khất thực ngoài thành. Đến khúc đường vắng vẻ, chợt có cả trăm tên cướp nhảy ra chặn đường. Chúng bao vây các tỳ kheo ni và buông lời giễu cợt.

Những nguy hiểm chập chùng đang bủa vây Đức Phật trên hang núi Indasala, nguy cơ dãi đãi trong tăng chúng khi thiếu vắng Đức Phật, vẻ ngoài yếu ớt của đoàn tỳ kheo ni liệu sẽ gặp những nguy hiểm nào từ những thế lực ngoại đạo tàn ác? Hãy đón xem tập 19 – “Đỉnh Núi Thiêng” để tìm hiểu chi tiết hơn về những câu chuyện xung quanh cuộc đời hoằng hóa đầy gian nan của Đức Phật và Tăng đoàn.

Tập 20: VÂN DU TỰ TẠI

Tập 20 – “Vân du tự tại” kể về hành trình hoằng hóa của Đức Phật khi một mình đi vân du mà không có ai bên cạnh. Trong chuyến đi đó, Đức Phật đã gặp một nhà nhân tướng học. Ông ta có một cô con gái tuyệt sắc nhưng ông vẫn chưa tìm được chàng rể ưng ý. Nay gặp Phật, ông ta muốn gả con gái cho. Tuy nhiên, sau khi Phật thuyết Pháp cho ông nghe, vợ chồng ông đã ngộ pháp và chứng quả Tu Đà Hoàn nhưng người con gái của ông thì đã hiểu lầm Thế tôn và phát lòng căm hận Người.

Cũng trong tập này, tôn giả Pindola Bharadvaja đã được gặp và xuất gia với Thế Tôn. Ngài cũng đã khai pháp cho Vua Udena.

Một câu chuyện khác về một người đệ tử xuất thân từ ngoại đạo của Đức Phật. Đó là tỳ kheo Magadiya. Magadiya xuất thân từ làng Kuru, là một du sĩ không tin vào đạo của Phật, ngược lại còn chống đối và ganh ghét ra mặt. Nhưng khi được gặp mặt và nghe Phật thuyết Pháp, ông đã ngộ Pháp và xin xuất gia theo Phật.

Tập 21: THIÊN NHÃN ĐỆ NHẤT

Một buổi sáng, Đức Phật đi khất thực. Chợt ngài đứng lại. Sau khi các tỳ kheo khác chia nhau đi khất thực ở các hướng, Người đi đến khu nhà của một Bà la môn đang dâng lễ cúng tế lên đền thờ lửa.

Khi thấy Đức Phật từ xa đi tới, người bà la môn bèn nói với cháu mình: “Này cháu… ai mà không có một đầu tóc được chăm sóc đẹp đẽ, cẩn thận thì chỉ là kẻ bần tiện mà thô…”

Rồi hét gọi Thế Tôn đứng lại, không được bước vào lễ đài. Đức Phật thấy vậy liền hỏi lại: “Này Bà la môn Aggika, ông biết những yếu tố gì làm nên một kẻ bần tiện không?”

Câu hỏi của Phật khiến cho Aggika bối rối. Vậy những yếu tố nào làm nên một kẻ bần tiện?

Một buổi sáng, Thế Tôn ôm bát rời khỏi tinh xá Kỳ Viên, hướng về đất nước vajji (Bạt Kỳ). Một hôm, trong lúc đang du hành về phía nam, chợt có một em bé chạy ra từ trong rừng, nước mắt giàn giụa, không nói không rằng, em cứ chỉ tay vào rừng. tôn giả Anuruddah vội vàng nắm tay đứa bé chạy nhanh vào rừng thì nghe thấy tiếng kêu cứu từ xa. Một toán cướp đang đánh đập dã man một người đàn ông. Ngài vội hét lớn: “Dừng tay lại…” Toán cướp giật mình quay lại. Nhưng khi thấy tôn giả Anuruddah chỉ là một nhà sư lại một thân một mình nên chúng không hề sợ hãi. Chúng cười khẩy và từ từ tiến lại bao vây tôn giả Anurudda… Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo? Tôn giả Anuraddah và gia đình nọ sẽ gặp nguy hiểm với một toán cướp đông và hung ác như thế nào?

Hãy theo dõi tập truyện 21 – Thiên nhãn đệ nhất để tìm hiểu “Thiên nhãn đệ nhất” là ai trong số những vị tỳ kheo xuất sắc của Đức Phật và Ngài chứng được những thần thông gì cùng những câu chuyện liên quan.

Kính mời quý Phật tử tiếp tục theo dõi những tập truyện tiếp theo của Bộ truyện tranh “Đỉnh núi tuyết” để tiếp tục tìm hiểu về cuộc đời hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và những đệ tử vĩ đại của Người.

Tập 22: ĐẠI SỰ NHÂN DUYÊN

Thời gian gần đây tại thành Vương Xá, nhiều người kéo nhau đến xem các Bà La Môn biểu diễn tám phép thần thông rất kì lạ. Họ có thể bay lơ lửng trên không, đi trên mặt nước, bị chặt ra làm nhiều khúc nhưng vẫn cử động được như bình thường… Một số người tin rằng họ được Phạm Thiên ban cho phép lạ.

Trước tình hình đó, Sadi La Hầu La rất lo lắng đã tìm hỏi ngài Nanda và Ngài đã nhắc đến một Đại sự nhân duyên lớn sắp diễn ra.

Trong khi đó, sau khi dùng thần thông để lấy chiếc bình bát bằng bạc mà trưởng giả Maluta treo trên ngọn sào, ngài Pindola đã bị Đức Phật quở trách và cấm không cho các vị đệ tử khác sử dụng thần thông để biểu diễn hơn thua với kẻ khác. Tuy nhiên, sau khi Vua Bình Sa cầu kiến và xin lời khuyên về việc các ngoại đạo vịn vào việc Đức Phật rầy la đệ tử của mình mà tiếp tục rêu rao về các huyễn thuật, Đức Phật đã tuyên bố sẽ thị hiện thần thông dưới gốc cây xoài Ganda vào mùa an cư tới…

Hãy theo dõi tập truyện 22 – Đại sự nhân duyên để tìm hiểu chuyện gì sẽ xảy ra, nhân duyên đại sự đó là nhân duyên gì và có ảnh hưởng như thế nào đối với Đức Phật cũng như con đường giáo hóa của Người.

Kính mời quý Phật tử tiếp tục theo dõi những diễn biến tiếp theo của Bộ truyện tranh “Đỉnh Núi Tuyết” để tiếp tục tìm hiểu về cuộc đời hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và những đệ tử vĩ đại của Người.

Tập 23: VI DIỆU PHÁP

Chư thiên đầy ngập trùng trùng lớp lớp, hào quang sáng rực, cung điện to lớn vô tận, hương thơm ngào ngạt, hoa trời tung bay khắp nơi. Vua trời Đế Thích, Thánh mẫu Maya cùng các chư thiên tử đều an trú nội tâm và lắng nghe Đức Phật thuyết Pháp trên cõi trời Đao Lợi.

Tại vì sao có những chư thiên tiến mãi đến các tầng trời cao hơn cho đến khi nhập Niết Bàn giải thoát, lại có chư thiên hết phước đầu thai làm người? Đến cảnh giới nào thì một bậc Thánh mới có thể thoát khỏi kiêu mạn dù cho phước báo của bản thân rất lớn?

Kẻ chấp công sẽ phí hoài công đức, tự khen mình thì sự thoái chuyển đã hình thành; người quên công, không tự khen mình thì sự bất thoái chuyển hình thành, người đó sẽ sinh về cõi trời, thể theo ý nguyện mà tiến tu mãi mãi.

Có những chúng sinh cõi người có lòng tin về chư thiên tử nên hay cầu nguyện xin xỏ đủ điều. Thế nhưng, những lời cầu xin đó có khi chính đáng, có lúc lại không. Và khi không được đáp ứng, chúng sinh đó lại mất niềm tin vào cõi trời, thậm chí phỉ báng cõi trời để tạo nghiệp bất thiện. Điều này chúng sinh phàm phu khó hiểu được mà mang nghiệp bất thiện vào thân.

Trong khi Đức Phật thuyết Pháp tại cõi trời Đao Lợi, hàng ngàn người vẫn tụ tập trong các lều trại dưới gốc cây xoài Ganda để chờ đợi. Thời gian của cõi Trời và nhân gian khác biệt quá lớn, vậy những người ở dưới nhân gian phải chờ đợi bao lâu Đức Phật mới trở về để thuyết Pháp? Sẽ có những biến cố, những câu chuyện nào sẽ xảy ra khi Đức Phật vắng bóng quá lâu?

Những diễn biến tiếp theo của Đại sự nhân duyên sẽ tiếp tục được trình bày trong tập truyện 23 của Bộ truyện tranh Đỉnh núi tuyết – Vi Diệu Pháp. Kính mời quý Phật tử tiếp tục theo dõi và thỉnh ấn phẩm tại…

Tập 24: ĐỆ NHẤT HÙNG BIỆN

Đêm đến trong tinh xá Kỳ Viên, tôn giả Nanda cùng trò chuyện với Sadi Rahula về những khó khăn sắp tới trong việc đào tạo và sử dụng hệ thống thám tử bảo vệ Phật và Tăng đoàn. Hôm sau, Sadi Rahula lặng lẽ đi đến một ngôi làng vắng vẻ giữa khu rừng vắng thuộc Kapilavatthu. Đến trước cửa một người phụ nữ mở cửa và xúc động quỳ xuống chào đón Sadi Rahula. Trong ngôi nhà ấy có rất nhiều con người kỳ lạ. Có người khinh công cao cường, phốc một cái đã nhảy lên được nóc nhà. Một người ném các thanh tre xuống nước rồi chạy trên các thanh tre đó để qua bờ bên kia. Có kẻ đang đi bỗng chốc biến mất chỉ còn chiếc áo rơi xuống…

Trong khi đó tại tịnh xá Kỳ Viên, Đại thần học sĩ nước Avanti Maha Kaccayana cùng với bảy người khác diện kiến Phật đảnh lễ và thỉnh Phật du hóa đến xứ Avanti. Đức Phật nhẹ nhàng thuyết pháp và giảng giải đạo lý cho các vị đại học sĩ đến từ xứ Avanti. Khi Phật hỏi Maha Kaccayana thế nào là Bát Chánh Đạo, Kaccayana bật đứng dậy và…

Vậy còn ai là đệ nhất hùng biện trong Tăng đoàn của Đấng Thế Tôn. Hãy đón xem tập 24 – “Đệ Nhất Hùng Biện” để tìm hiểu về người đệ tử siêu phàm này của Đức Phật.

Những sự việc liên tục xảy ra sau Đại sự nhân duyên được cập nhật trong tập 24 – Đệ Nhất Hùng Biện của bộ truyện tranh Đỉnh Núi Tuyết sẽ đem đến những khám phá bất ngờ và sâu sắc cho người xem. Kính mời quý Phật tử cùng đón nhận và thỉnh ấn phẩm.

Tập 25: CHA MẸ KIẾP XƯA

Qua 24 tập truyện tranh Đỉnh núi tuyết với nhiều tình tiết bí ẩn, kịch tính và đầy sức hấp dẫn, cuộc đời và sự nghiệp hoằng hóa vĩ đại của Đức Phật như dần được hé lộ những góc khuất ít ai biết được. Đến với tập 25 – Cha mẹ kiếp xưa, kính mời quý Phật tử tiếp tục theo dõi từng bước chân hóa độ của Đấng Thế Tôn cùng các đệ tử phi thường của Người.

Sau lần thi triển thần thông ở cánh đồng phía nam Savathi, ngày càng có nhiều người tin theo và xin được xuất gia theo Phật. Song song đó là sự chống phá ngày càng dữ dội của ngoại đạo. Chúng thuê sát thủ theo ám sát Phật và các đệ tử của Người, mua chuộc quan coi thành và đổ tội cướp đoạt tài sản cho Tăng chúng, bỏ thuốc độc vào vật phẩm cúng dường, đào hầm chông để Phật rơi xuống… Nhưng tất cả đều thất bại. Chúng vô cùng tức tối và họp bàn tìm mọi cách hãm hại Phật, kể cả việc xuất gia và trà trộn vào Tăng đoàn của Phật…

Câu chuyện về cậu bé Sivali ở trong bụng mẹ bảy năm. Khi vừa ra đời, gặp Phật và được xuất gia, khi tôn giả Sariputta cạo đường tóc thứ nhất, Sivali chứng quả thánh thứ nhất – Tu Đà Hoàn. tôn giả cạo đường tóc thứ hai, Sivali chứng quả thánh thứ hai – Tư Đà Hàm. tôn giả cạo đường tóc thứ ba…

Ở một câu chuyện khác, khi tôn giả Subhuti một mình đi vào rừng và ngồi trên một tảng đá thì bị một con cọp rình rập tấn công. Thế nhưng ánh sáng từ bi của vị tôn giả tỏa ra khiến cho con hổ khựng lại và quy phục. Sau khi được hóa độ, con cọp liền bỏ thân qua đời. Con hổ đó có nhân duyên như thế nào với vị tôn giả tràn ngập từ bi Subhiti khi được chính tôn giả hóa độ?

Cuối truyện, chúng ta sẽ bất ngờ cùng với sự kiện Đức Phật gặp lại cha mẹ kiếp xưa của mình khi cùng chư tăng khất thực ở Sankassa.

Những diễn biến hấp dẫn của tập truyện “Cha Mẹ Kiếp Xưa” sẽ tiếp tục được trình bày trong tập truyện 25 của Bộ truyện tranh Đỉnh Núi Tuyết. Kính mời quý Phật tử tiếp tục theo dõi và thỉnh ấn phẩm.

(Nội dung trên được copy từ trang https://thichchanquang.com/)

Tập 27

Tập 28

Tập 29

Tập 30


BẢNG CHÚ THÍCH

(Ghi chú: bảng này chỉ là đề xuất, chưa hoàn thiện)

 

PHÂN LOẠI

TÊN NGUYÊN GỐC

DỊCH SANG TIẾNG VIỆT

GIẢI THÍCH Ý NGHĨA (NẾU CÓ)

TẬP TRUYỆN

Đất nước

Magadha

Ma Kiệt Đ

Nước

Anga

Ương Già

Xứ

Kosambi

Neranjana

Sông Ni Liên Thiền

Veluvana monastery

Tịnh xá Trúc Lâm

Rajagaha

Vương Xá

Vediya

Indasala

Tỳ Đà Sơn

Devadaha

Quê của hoàng hậu Maya

2

Kapilavastu

Ca Tỳ La V

Kinh thành của Sakya

1

Sakiya

Thích Ca

Một tiểu quốc của ấn độ, do dòng họ Gotama trị vì

1

Kosala (kiều tất la), magadha (ma kiệt đà), licchavi, vesali (tỳ xá ly), vaji, vedeha, âng, moriya, kokiya, malla, kalama, vấm, kasi, avanti

Các nước lân bang Sakya

5

Pataliputta

Hoa thị thành

Kinh thành benares

Ba La Nại

Một thành phố lớn uốn cong nằm phía bắc dòng sông hằng, thuộc nước ma kiệt đà, ở tây nam osala, nơi có tập tục tắm nước sông hằng, cũng là nơi đức phật truyền giáo pháp đầu tiên.

11

Tìm hiểu (*)

Thôn sa la đà

Quê của ngài Kassapa (Đại Ca Diếp)

18

Jetavana

Kỳ viên

Tịnh xá

21

Vajji

Bạt kỳ

Nước

21

Lambini

Lâm t ni

Khu rừng nơi hoàng hậu maya hạ sinh đức phật

2

Giai Cấp

Khatthiya

Sát đế lợi

Giai cấp có nhiều ruộng đất ở kinh thành ca tỳ la vệ, lo việc trị nước

5

Sadra

Thủ đà la

Giai cấp hốt phân

5

Brahmana

Giai cấp lo việc tế tự

5

Vaisiya

Vệ sá

Giai cấp làm các ngành nghề

5

Brahmana

Bà la môn

Tôn Giả

Sariputta

Xá lợi phất

Đệ nhất trí tuệ – thống lĩnh tăng đoàn

13

Moggalana

Mục kiền liên

Đệ nhất thần thông – thống lĩnh tăng đoàn

13

Ananda

A nan

Đệ nhất đa văn truyền trì kinh tạng

Rahula

La hầu la

Đệ nhất mật hạnh – bảo hộ tăng đoàn

Bakula

Bạc câu la

Đệ nhất cường tráng – a la hán

Upali

Ưu pa li

Đệ nhất trì giới – a la hán

Subhuti

Tu bồ đề

Tôn giả a la hán

Devadatta

Đề bà đạt đa

Tôn giả a la hán

15

Anuruddha

A nậu lâu đà

15

Kimbila

Kim tỳ la

15

Nandiya

Nan đề

15

Sudatta

Cấp cô độc

Yasa

Da xá

Đệ nhất tán thán thế tôn- a la hán

11

Gavampati

Kiều phạm ba đề

Bạn thân tôn giả yasa, hóa độ phương đông – a la hán

11

Vimala

Bạn thân tôn giả yasa – a la hán

11

Subahu

Bạn thân tôn giả yasa – a la hán

11

Punnaji

Bạn thân tôn giả yasa – a la hán

11

Nanda

Nan đà

Kondanna

Kiều trần như

Một trong năm anh em kiều trần như – a la hán

9

Assaji

A xà chí

Một trong năm anh em kiều trần như – a la hán

9

Mahanama

Một trong năm anh em kiều trần như – a la hán

9

Bhadiya

Một trong năm anh em kiều trần như – a la hán

9

Vappa

Một trong năm anh em kiều trần như – a la hán

9

Uruvela kassapa

Ưu lầu tần loa ca diếp

Anh em nhà kassapa

Nidi kassapa

Anh em nhà kassapa

Gaya kassapa

Anh em nhà kassapa

Punna mantaniputta

Phú lâu na mã từ tử

Tôn giả xây dựng đền thờ nơi đức phật đã đản sinh vườn lumbini, có nhân duyên lớn với nhân dân vùng kapilavatthu nên về đó mở mang giáo hóa – a la hán

15, 20, 21, 24

Bhagga, tissa, usabha, uttiya, parupunnaka, rakkhita, pakkha, sappadasa

(tìm hiểu)

15

Pinana

Tôn giả (tìm hiểu) (*)

15

Udaka

Vị tỳ kheo trẻ thắc mắc hỏi tôn giả sariputta về sự hạ sinh của ngài la hầu la

16

Kassapa

Ca diếp

Đệ nhất đầu đà khổ hạnh – a la hán

18

Sattha

Tỳ kheo là đệ tử của tôn giả punna mataniputta

21

Upasena

Anh trai của tôn giả sariputta (xá lợi phất), cũng xuất gia theo đức phật

22

Maha cunda

Em trai của tôn giả sariputta (xá lợi phất), cũng xuất gia theo đức phật

22

Revata

Ly bà đa

Em trai út của tôn giả sariputta (xá lợi phất), cũng xuất gia theo đức phật

26

Pindola bharadvaja

Tân đầu lư phả la đọa

Tôn giả thi triển thần thông bay lên và lấy chiếc bình bát treo trên cây sào hai mươi mét

22

Maha kaccayana

Ca chiên diên

Trước kia là đại thần học sĩ của nước avanti, sau xuất gia theo đức phật, đệ nhất hùng biện – A la hán

24

Magandiya

Tìm hiểu (*)

Tỳ kheo

20

Vua chúa hoàng thân quốc thích

Sudhodana

Tịnh Phạn

Vua Tịnh Phạn

Maya

Ma da

Hoàng hậu ma da – vợ vua tịnh phạn

Gotami

Kiều đàm di

Đức bà – em gái hoàng hậu maya

Yashodara

Da du đà la

Công chúa da du đà la – vợ thái tử tất đạt đa

Sujatha

Cung nữ theo hầu đức bà gotami – người thôn nữ dâng bát sữa cho thái tử lúc đang khổ hạnh

Pajapati

Bà xà ba đề

Em gái của hoàng hậu maya, người nuôi dưỡng đức phật khi còn bé.

2

Mahanama

Con trai của hoàng thúc amitodana của đức phật, sau này được vua tịnh phạn truyền ngôi vua

4

Adhika

Một tướng quân lỗi lạc dưới trướng vua tịnh phạn, ngài đã được cử đi tìm bản đồ kho báu bị thất lạc

4

Sihahanu

Nội tổ của vua tịnh phạn

5

Jayasena

Tổ phụ (cha) của vua tịnh phạn

5

Suppabuddha

Em trai vua tịnh phạn, cha của công chúa yashodara

Amitodhana

Hoàng thúc của đức phật, cha của ngài ananda

6

Devadatta

Đề bà đạt đa

Em họ của đức phật

7

Sundari

Em họ của đức phật

7

HỖN HỢP

Asita

Trưởng tế đầy đạo hạnh của giai cấp bà la môn, người xem tướng cho đức phật

1

Channa

Người giữ ngựa của đức phật khi người chưa xuất gia.

8

Alara kalama

Tôn sư của đức phật, ngài đã chứng được mức định vô sở hữu xứ định,

9

Uddaka ramaputta

Tôn sư của đức phật, ngài đã chứng được phi tưởng phi phi tưởng xứ định

9

Sujatha

Thị nữ đóng giả làm người dân thường để hỗ trợ cho đức phật về lương thực và thuốc men khi ngài tu khổ hạnh

9

Sudatta (hay còn gọi là anathapindka)

Tu đạt (cấp cô độc)

Người do đức phật trước kia đã đào tạo nên, sẽ làm nhiệm vụ dốc tiền ủng hộ đức phật truyền giáo.

11

Brahmadatta

Vị vua cai trị kinh thành benares thời xưa, cũng là tiền kiếp của đức phật.

11

Pinana

Một trong ba mươi thanh niên ở thị trấn gaya

12

Uruvela kassapa

Đạo sĩ là một trong ba anh em nhà kassapa, một truyền nhân của sư tổ uddaka ramaputta sau khi ngài mất.

12

Nadi kassapa

Em ruột của đạo sĩ uruvela kassapa, một truyền nhân của sư tổ uddaka ramaputta sau khi ngài mất.

12

Samudda

Con một vị hội đồng thành phố magadha, khởi tâm xuất gia khi vua bimbisara yết kiến và quy y với thế tôn

13

Jeta

K đà

Thái tử, con của đại vương pasenadi, đất nước savathi

8

Subhuti

Người cháu của sudatta (cấp cô độc), sau đó xuất gia theo đức phật.

Bhadda

Bạc đề

Vợ của ngài ca diếp, sau này cũng xuất gia.

18

Mahali

Hoàng tử nước vesali

Tamba

Bà quản kho nhà của sudatta, kiếp trước là mẹ của tôn giả Lahula

21

Culla sumana

Cậu bé là ông chủ ở kiếp xưa của tôn giả anuruddha, và được tôn giả độ ở kiếp này

21

Maluta

Vị trưởng giả đã thách các sa môn, đạo sĩ tất cả giáo phái thi nhau bay lên không để lấy được bình bát bằng bạc treo trên cây sào hai mươi mét

22

Mahali

Hoàng tử nước koliya

25

Suppavasa

Công cúa nước loliya

25

Candapajjota

Vua xứ avanti

24

Malixa

Cô gái đã bán mái tóc dài của mình để có tiền cúng dường tôn giả maha kaccayana và 4 vị tôn giả đi cùng.

24

Ông bà nakula

Cha mẹ kiếp xưa của đức phật

26

Janussi

Đạo sĩ bà la môn

26

Udena

Ưu điền

Vua của xứ kosambi

26

Magamdiya

Thứ phi của vua kosambi

26

Samavati

26

Sari

Mẹ của ngài Xá Lợi Phất

26

Tìm hiểu (*)

Ni câu lự đà kiệt ba

Gia đình của ngài kassapa (đại ca diếp)

18

Pasenadi

Ba tư nặc

Vua nước kosala

7, 20

Malika

Mạt lợi

Vợ vua ba tư nặc nước kosala

20

Dòng tộc

Usabha

Nagasamala

Devasabha

Uttiya

Uất đế du

Paripunnaka

Nagita

Meghiya

Tissa

Đế tu

Lomasakangiya

Vanavaccha

Bhagu

Bà cửu

Rakkhita

Lặc khí đa

Pakkha

Kaludayi

Ka lu đà di

Bimbisara

Bình sa

Vua bình sa

12

Videhy

Vi đề hy

Hoàng hậu – vợ vua bình sa

12

Padumavati

Hồng liên

Hoàng phi – vợ vua bình sa

Khema

Hoàng phi – vợ vua bình sa

Ambapali

Hoàng phi – vợ vua bình sa

Chellana

Hoàng phi – vợ vua bình sa

Punjab

Hoàng phi – vợ vua bình sa – công chúa của tù trưởng xứ punjab

Silavi

Hoàng phi – vợ vua bình sa

Ajatasattu

A Xà Thế

Thái tử – con trưởng vua bình sa

8

Abaya

Vô úy

Vương tử – con thứ vua bình sa

Jivaka

Kỳ bà

Vương tử – con thứ vua bình sa

Vimala

Tỳ ma la

Vương tử – con thứ vua bình sa

Risha

Con một vị tướng quân, người yêu cũ của hoàng hậu Videhy

7



Tập 1: VỊ VUA TÀI GIỎI

Sakya là một tiểu quốc của Ấn Độ với kinh đô là Kapilavastu do dòng họ Gotama trị vì. Vua Sudhodana (Tịnh Phạn) là một vị Vua tài giỏi, trị vì anh minh nên nội tình ổn định, việc ngoại giao với các lân bang cũng rất tốt đẹp. Dòng họ Gotama thủ đắc bí quyết luyện khí lực nên nhiều đời luôn chiến thắng trong các cuộc tranh tài và trong chiến tranh. Hằng đêm Vua Tịnh Phạn luyện tập khí lực và võ nghệ, Đại Vương đã hơn 40 tuổi rồi nhưng chẳng có vị tướng trẻ nào đánh lại.

VUA CAI TRỊ ĐẤT NƯỚC:

Một lần nọ, tại biên giới Sakya có tộc người lạ nổi lên cướp phá khắp nơi, Vua Tịnh Phạn hay tin đã sai các tướng quân khéo léo thuần phục giặc bằng cách: 1 cánh quân đến tập kích bao vây thủ phủ buộc họ phải đầu hàng và Vua căn dặn tránh giết nhiều người; cánh quân thứ 2 chở 50 xe lúa đến tặng cho họ, có lẽ họ thiếu lương thực; cánh quân còn lại đem 500 quân đến bảo vệ dân làng và chờ giặc rút đi rồi cho họ ít lương thực đem theo ăn dọc đường. Với chiến lược tài tình và tấm lòng từ ái luôn chủ trương chiến tranh là việc bất đắc dĩ, giết hại sẽ để lại hận thù nên Vua dùng cách cảm hoá. Chính điều này đã làm cho giặc được thuần phục hoàn toàn. Không những thế hằng năm Vua còn đến thăm và khích lệ dân chúng, hướng dẫn họ trồng lúa.

Vua Tịnh Phạn luôn cố gắng giữ cho đất nước yên bình và giúp các vùng lân bang còn nghèo đói để các nước sống thuận hoà với nhau, không chiến tranh là hạnh phúc của toàn dân. Vua lường trước được năm nay mùa màng có dấu hiệu bội thu nên cấp phát lúa cho những vùng lân cận còn nghèo. Vua cho gửi các thầy thuốc đi khắp nơi để chữa bệnh cho dân, dạy cho dân biết cách dùng thuốc, hái thuốc về chế biến để tự chữa cho gia đình mình như vậy sẽ không lo thiếu thuốc. Vua cho kêu gọi các tướng sĩ hướng dẫn gia đình họ làm thêm các ngành khác như làm thúng, làm bè, dệt vải, làm gạch,… nhiều người sẽ đem lúa đến đổi thứ gì họ không có như vậy không cần phải làm ruộng nhiều.

Nhìn thấy dân làng nghèo khổ, nhiều người không có nhà ở đàng hoàng Vua ra lệnh mọi người dân giúp đỡ lẫn nhau, chung tay giúp nhau xây nhà, chẳng bao lâu khắp xứ sở Sakya được sống trong cảnh ấm no, hạnh phúc, lòng dân vô cùng mến mộ vị Vua anh minh của mình.

Vua cũng luôn củng cố quân sự để phòng khi có chiến tranh. Vua nói với chiến sĩ của mình: “Hãy dũng mãnh trước quân địch, nhưng hãy nhã nhặn trước đồng bào, các ngươi phải là nỗi kinh sợ của kẻ địch nhưng phải là niềm thương quý của toàn dân”.

Vợ của Vua là Hoàng Hậu Maya, mãi đến năm gần 40 tuổi Hoàng Hậu mới hoài thai. Và trước khi hoài thai Hoàng Hậu có mộng thấy điềm lạ. Đó là đêm trăng rằm khi Hoàng Hậu ngồi ngắm trăng bên cửa sổ và thấy một con voi từ trên không trung hiện ra sáng chói với sáu cái ngà, từ từ đi xuống gần chào Hoàng Hậu ân cần, rồi lấy cái ngà vạch một đường bên hông phải và bất ngờ mất hút vào trong bụng, Hoàng Hậu giật mình thức giấc thì thấy khắp phòng hương thơm ngào ngạt, tiếng nhạc du dương còn văng vẳng trên không, lòng cảm thấy an lạc lạ thường và cảm giác mình bắt đầu hoài thai. Từ lúc Hoàng Hậu hoài thai trong phòng lúc nào cũng có Thiên Thần hộ vệ.

Một lần Vua và Hoàng Hậu đến đền thờ Bà La Môn cúng bái để cầu cho Hoàng Hậu được vuông tròn, Hoàng Hậu có kể lại giấc mộng kỳ lạ thì được các vị tu sĩ của Bà La Môn tiên đoán đó là một điềm lành, nhân loại sẽ chứng kiến một Thánh nhân, một vĩ nhân, một siêu nhân ra đời, sau này Thái Tử sẽ là người dẫn đạo cả cõi đất, Sakya sẽ là Thánh địa bất diệt của loài người. Vị ấy nói thêm, Hoàng Hậu Maya được công đức vô biên vô lượng vì đã hoài thai một Thánh nhân cho thế giới, sẽ được phần thưởng lớn lao ở cõi trời.

Trong giai cấp Bà La Môn lúc bấy giờ có 1 vị trưởng lão là Asita – một người tràn đầy đạo hạnh, năm nay đã hơn 100 tuổi. Vào một ngày đẹp trời, Vua dẫn theo một số tùy tùng băng qua sông Banga đến thăm trưởng lão, nhờ chú nguyện cho Hoàng Hậu mẹ tròn con vuông, mọi điều an lành và cúng dường trưởng lão. Trưởng lão nói: “Ta nhìn thấy một vầng hào quang tràn ngập cả kinh thành Kapilavastu, Thiên Thần đang hộ vệ bào thai của Hoàng Hậu. Hoàng Hậu sẽ sinh một hoàng nam, và vị Vương Tử này sẽ làm cho dòng họ Gotama trở thành bất tử. Nhưng sau niềm vui lớn lao về sự hạ sinh của Vương Tử siêu đẳng này, Đại Vương có thể phải chịu phân nửa nỗi buồn đấy”. Vua vừa mừng vừa lo hỏi rõ vị trưởng lão nhưng không nhận được câu trả lời, trưởng lão chỉ nhắn nhủ rằng Vua hãy đi về và khi nào Thái Tử hạ sinh trưởng lão sẽ về xem tướng cho Thái Tử và thăm kinh thành Kapilavastu lần cuối.

Lúc này ở Devadeha, thuê tử của Hoàng đệ Suppabuddha cũng đang mang thai và sẽ sinh vào cuối năm. Thế là trong một năm đất nước Sakya có đến 2 hoàng tử công chúa cùng ra đời, thật là điều đặc biệt.


TẬP 2: ĐẢN SINH

Như huynh đệ cũng đã biết Vua Sudhodana (Tịnh Phạn) là một vị Vua hết sức nhân từ và tài giỏi. Hoàng Hậu Maya là một Hoàng Hậu với tâm từ bi, độ lượng và hết mực thương yêu mọi người. Đức Vua và Hoàng Hậu cai trị trong một kinh thành tên là Kapilavathu (Ca Tỳ La Vệ). Đức Vua và Hoàng Hậu đã lớn tuổi nhưng vẫn chưa có con, nên hai người rất bận lòng về điều này. Một ngày khi Hoàng Hậu Maya nằm mộng thấy có một vầng sáng chiếu vào bụng mình, một con voi trắng sáu ngà xuất hiện đến bên hông phải của Hoàng Hậu rồi biến mất. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy Hoàng Hậu đã thụ thai, các vị tế sư tiên đoán Hoàng Hậu sẽ sinh ra một vĩ nhân. Và theo tục lệ Ấn Độ xưa gần đến kỳ sanh nở Hoàng Hậu sẽ về quê ngoại Devadaha để sinh nở.

Ngày sinh nở gần đến Hoàng Hậu Maya theo đoàn tùy tùng trở về quê ngoại. Khi đi ngang cánh rừng Lambini (Lâm Tỳ Ni), Hoàng Hậu trông thấy từ xa một loại cây nở hoa rất đẹp bèn cho dừng chân để ngắm hoa. Khi Hoàng Hậu tiến lại gần cây hoa lạ thì có một việc kì lạ xảy ra. Khu rừng Lâm Tỳ Ni nổi tiếng có rất nhiều thú dữ, nhưng khi chúng thấy Hoàng Hậu thì đi theo tỏ vẻ muốn bảo vệ người chứ không giống loài thú đi săn mồi. Chim chóc bay lượn một cảnh tượng rất đẹp. Hoàng Hậu bước đến bên cây hoa lạ đưa tay hái một cành hoa, vừa chạm vào thì bên hông phải của người hoàng tử bước ra. Mọi người sửng sốt, trên trời chư thiên tấu nhạc vang lừng, hoa trời rơi rụng nâng bước chân Thái Tử.

Lúc này, Thái Tử chỉ tay trên trời và nói: “Trên đời ta là người tôn quý nhất”. Vua Tịnh Phạn hay tin Hoàng Hậu hạ sanh Thái Tử liền tức tốc đến Lâm Tỳ Ni đón Hoàng Hậu về Ca Tỳ La Vệ.

Sau khi Hoàng Hậu ra về thì Đức Vua đã cho người đi hái cành hoa lạ kia và được biết đó là hoa vô ưu chỉ nở khi có thánh nhân xuất hiện.

Khi Đức Vua vào thăm Thái Tử thì bỗng nhiên người quỳ xuống đảnh lễ Thái Tử vì ngài thấy có một sức mạnh phi thường nơi hài nhi.

Sau khi hạ sinh Thái Tử, Đức Vua đã mời các vị đạo sĩ đến xem tướng cho Thái Tử. Các vị đạo sĩ cho biết Thái Tử có tướng của một bậc Thánh, ông đã bật khóc và lo sợ mình không sống được tới ngày Thái Tử đắc Đạo.

Đạo sĩ tiên đoán: “Một là Thái Tử sẽ là một bậc thánh nhân phi thường, còn hai là Thái Tử sẽ trở thành Thánh Vương xuất chúng, cai trị cả cõi trời đất”. Thái Tử được đặt tên là Siddhattha (Tất Đạt Đa) có nghĩa là toại nguyện. Sau khi Hoàng Hậu Maya hạ sinh Thái Tử được bảy ngày thì trong lễ đặt tên của Thái Tử Hoàng Hậu đã qua đời và được các chư thiên đón lên trời hưởng phúc. Thái Tử được giao cho em gái của Hoàng Hậu là Pajapati (Bà Xà Ba Đề) nuôi dưỡng và chăm sóc.

Ngay từ khi sinh ra, Thái Tử đã rất đặc biệt, Thái Tử không bao giờ khóc và trầm tĩnh, chững chạc như người lớn.

Do mẹ mất sớm nên Thái Tử phải xin sữa của mọi người và ai đã cho Thái Tử sữa thì con cái của người đó cũng rất bụ bẫm, xinh đẹp.

Qua câu chuyện này huynh đệ chúng ta thấy Thái Tử Tất Đạt Đa sau này là Đức Phật Thích Ca, ngay từ khi sinh ra đã là một vị thánh nhân phi thường. Và cách mà Người được sinh ra cũng không giống người thường mà theo một cách rất phi thường, hết mực tôn quý.

Nhân quả:

– Nếu ta có lòng từ bi đức độ, sống vì chúng sinh, yêu thương tất cả mọi người thì khi mất ta sẽ được sinh lên cõi trời.

– Khi chúng ta cúng dường Đức Phật thì nhân quả cho chúng ta diện mạo xinh đẹp, và sẽ được mọi người yêu mến.


TẬP 3: NGƯỜI MẸ HIỀN

Thái Tử Sidhattha (Tất Đạt Đa) ra đời trong sự vui mừng của tất cả mọi người trên đất nước Sakya.Thế nhưng trong buổi lễ đặt tên cho Thái Tử, Hoàng hậu Maya (Ma-da) đột ngột qua đời. May thay, Công nương Pajapati (Bà Xà Ba Đề) – em gái của Hoàng hậu Maya đã tình nguyện ở lại kinh thành Kapulavatthu (Ca Tỳ La Vệ) để chăm sóc cho Thái tử mới sinh. Công nương Pajapati (Bà Xà Ba Đề) là một người hết sức nhân từ; võ thuật rất giỏi với những đường gươm hết sức thuần thục, nhanh gọn. Công nương Pajapati (Bà Xà Ba Đề) thương yêu Thái Tử như chính con ruột của mình, chăm sóc hết sức chu đáo, ân cần. Không chỉ vậy, Công nương Pajapati còn phụ giúp Vua Sudodhana (Tịnh Phạn) coi sóc công việc của hoàng cung rất vẹn toàn, giúp Vua chuyên tâm lo việc nước.Nhờ vào sự quan tâm của Công nương tới người phụ bếp Panase mà Pajapati tình cờ phát hiện ra âm mưu phản bội của tên Avera. Hắn đã uy hiếp mẹ con Panase để thực hiện âm mưu bỏ thuốc độc vào đồ ăn của Vua nhưng hắn không thể làm lay động được lòng trung thành hết mực của mẹ con Panase. Âm mưu không dừng lại ở đó.

Hoàng thân Amitodhana (Hoàng thúc của Thái Tử Tất Đạt Đa) cùng con trai Mahanama tới thăm Vua Sudodhana (Tịnh Phạn), Công nương Pajapati (Bà Xà Ba Đề) và Thái Tử Siddhattha (Tất Đạt Đa). Sáng hôm sau, Hoàng thân Amitodhana cùng Vua Sudodhana về thăm Devadaha (quê của hoàng hậu Maya). Đức Vua hết sức ca ngợi công nương Pajapati – một người dì cực kỳ thông minh, quán xuyến mọi chuyện rất giỏi. Đoàn người ra về, trên đường phát hiện có phục kích và có thể bị bao vây bốn phía. Trong khi đó tại kinh thành Kapilavatthu (Ca tỳ La Vệ) xuất hiện nhiều kẻ lạ mặt có giấu vũ khí, tướng quân Bashura – người giữ kinh thành cũng đã dẫn quân đi xem xét biến động ở Tuyết Sơn, chỉ còn lại tướng quân Nameti. Tình hình hết sức nguy bách nhưng Công nương Pajapati bình tĩnh chỉ đạo, ra lệnh đối phó giặc.

Người cũng không quên dặn binh sĩ: “Cố gắng đừng giết hại ai, để ta tra hỏi về sau”. Pajapati im lặng nhìn Thái Tử đang say giấc ngủ cũng như đang im lặng chủ động đợi giặc xuất hiện. Bỗng có tiếng bước chân, hai tên thích khách vung đao lên nhưng đã bị Pajapati chặn lại và chỉ với vài đường gươm thoăn thoắt của công nương mà hai tên giặc này đã nhanh chóng bị bắt lại. Giặc cũng xuất hiện ngoài thành dưới dạng lái buôn nhưng cũng nhanh chóng bị quy phục. Trong ngoài kết hợp, kinh thành Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ) đã ổn định và tiêu diệt được quân giặc. Lúc đó trong rừng, Đức Vua, Hoàng thân và binh sĩ quyết định phá vòng vây, tìm cách bắt từng tên giặc để phá vỡ thế trận của chúng. Quân tiếp viện cũng đến kịp lúc, Đức vua Sudodhana trở về hoàng cung. Bọn giặc cũng bị điều tra ra có liên quan đến tên Avera, vài người Thích Ca và cả vua Maha Kosala (Kiều Tất La) ở Savathi (Xá Vệ). Việc này cũng liên quan đến tin đồn tốt đẹp từ Thái Tử Siddhattha (Tất Đạt Đa) lan ra khiến ai cũng lo sợ một ngày nào đó dưới sự lãnh đạo của Thái Tử thì sẽ chiếm hết các nước lân bang. Từ đó, Đức Vua ra lệnh cấm không ai được nói đến những điều tốt đẹp của Thái Tử nữa, đồng thời cũng cho quan binh tặng vật phẩm cho các gia đình liệt sĩ. Chiến tranh làm ai cũng đau khổ, Đức Vua và Công nương Pajapati đều hy vọng vào Thái Tử: “Sau này không cần đánh mà thiên hạ quy phục thì hay lắm”.

Mọi chuyện đã ổn định, Đức Vua và công nương Pajapati (Bà Xà Ba Đề) đưa Thái Tử đến lễ Phạm Thiên ở đền thờ Balamon (Bà La Môn) nhưng trên bầu trời xuất hiện lốc xoáy làm cho ngôi đền bị hư hỏng; Thái Tử không chịu lễ bái Phạm Thiên. Điều kỳ lạ cứ nối tiếp nhau, Thái Tử Siddhattha (Tất Đạt Đa) ngồi trong vườn hoa mà các loài chim trên trời đều bay đến vây quanh chào mừng. Hơn nữa, ban đêm ở xung quanh phòng của Thái Tử luôn có vầng ánh sáng bao phủ. Những điều kỳ lạ này đều được công nương Pajapati xử lý êm ả để không bị lọt ra ngoài, Vua Sudodhana (Vua Tịnh Phạn) hết sức khen ngợi cách xử sự thông minh và nói: “Đúng là điều tốt phải biết che giấu lại. Điều tốt cho người này lại là là điều thiệt thòi cho người khác”.

Qua tập 3 truyện Đỉnh Núi Tuyết đã giúp huynh đệ chúng ta thấy được tài năng, đức độ của công nương Pajapati (Bà Xà Ba Đề) không chỉ thay Hoàng hậu Maya chăm sóc, yêu thương Thái Tử Siddhattha (Tất Đạt Đa) như con ruột của mình, võ nghệ tinh thông mà còn rất khéo léo, giỏi giang, thông minh trong việc coi sóc hoàng cung, giúp Vua Sudodhana (Vua Tịnh Phạn) chuyên tâm lo việc nước. Công nương Pajapati thật xứng đáng là một Người Mẹ Hiền!


TẬP 4: THẦN ĐỒNG

Sau buổi nói chuyện với Vua Tịnh Phạn về thành tích học tập và rèn luyện ngày một tiến bộ của con trai mình, hoàng thúc – Em trai Vua Tịnh Phạn ghé thăm cậu cháu trai sáu tuổi Tất Đạt Đa. Ông không khỏi ngạc nhiên khi tận mắt chứng kiến những điểm đặc biệt, từ ngoại hình đến tính cách “không giống bất kỳ trẻ em nào” của cháu trai mình. Thái Tử Tất Đạt Đa mang vẻ đẹp của một thiên thần, thân người luôn tỏa ra hương thơm tự nhiên êm dịu nhẹ nhàng và ánh sáng nhè nhẹ rất lạ về đêm, giọng nói vang như tiếng chuông, thường trầm ngâm và mang vẻ chững chạc như người lớn, dáng đi điệu đứng khoan thai đĩnh đạc, nụ cười có thể xua đi nỗi phiền muộn trong lòng người khác. Đứng trước vẻ đẹp “rực rỡ như một khối châu báu” của Tất Đạt Đa, hoàng thúc bỗng nhiên thay đổi ý định đưa cậu con trai tài giỏi của mình – Mahanama tới theo học cách trị nước tại một trường đại học danh tiếng, “chỉ cần sau này Mahanama phục vụ cho Tất Đạt Đa thì cũng tốt rồi”. Về phía Vua Tịnh Phạn, vì không đành để người con trai duy nhất đi học xa, nhà Vua đã gửi lời mời năm vị thọ sư danh tiếng về cung điện trực tiếp giảng dạy cho Thái Tử.

Vào ngày trăng tròn tiếp sau đó, năm vị thọ sư đã có mặt tại cung điện. Ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên, các thọ sư cũng vô cùng ấn tượng với tướng mạo tuyệt đẹp của Thái Tử – “chắc hẳn đây là một bậc tài trí phi thường”. Để phù hợp với độ tuổi còn nhỏ của Thái Tử, năm vị thầy quyết định luân phiên hướng dẫn trước năm môn (võ thuật, viết chữ, oai nghiêm của hoàng cung, kiến thức căn bản của trời đất, và toán số). Các bộ môn khác phức tạp hơn Thái Tử sẽ học khi lớn lên.

Thái Tử bắt đầu tháng tu học đầu tiên với võ thuật, viết chữ, nghi lễ hoàng cung và kiến thức về trời đất. Tất Đạt Đa rất thông minh, học đâu hiểu đó, siêng năng luyện võ, chữ viết cũng rất đẹp. Đối với mỗi vấn đề được giáo sư chỉ bảo, Thái Tử thường có những khúc mắc khiến các vị thầy thông thái cũng khó đưa ra được một câu trả lời thỏa đáng. Ví như khi học chữ, Người bày tỏ suy nghĩ về việc dạy cho tất cả mọi người ai cũng biết chữ trong khi thọ sư cho rằng chữ viết của Phạm Thiên là cao quý không phải ai cũng có thể học. Hay những câu hỏi về nguồn gốc của Phạm Thiên và liệu đã có ai kiểm chứng học thuyết “trời đất do Phạm Thiên sinh ra” mà các thọ sư giảng dạy. Đã có lần Vua Tịnh Phạn gọi Thái Tử lên nhắc nhở vì cho rằng cậu con trai nghịch ngợm nên mới bắt bí sư phụ. Thái Tử khẳng định trước Vua cha sự ham học hỏi tìm kiếm lời giải đáp cho các khúc mắc trong lòng chứ không bao giờ có ý bất kính với các vị thọ sư. Cũng chính tại buổi gặp đó, Vua và Hoàng Hậu hết sức bất ngờ khi chứng kiến những tiến bộ vượt bậc của con trai chỉ sau một tháng tu học, với những thế võ phức tạp mà vốn dĩ những đứa trẻ khác phải luyện tập mất hai năm.

Dưới sự hỗ trợ, quan tâm theo sát từ Vua cha và mẫu hậu, Thái Tử chăm chỉ tiếp tục tu học. Các thọ sư dạy cho Thái Tử toán số, thực hành thiền định cho tâm hồn an lạc, các quy luật của tự nhiên được ghi chép lại từ bao đời nay, cách cảm nhận những nguy hiểm xung quanh trong chiến đấu mà không chỉ dùng mắt thường để nhận diện, luyện tập cưỡi ngựa, cảm thụ âm nhạc cùng với nghệ thuật múa hát, và cách di chuyển trong nước. Đối với mỗi phân môn học, Tất Đạt Đa luôn tìm hiểu một cách sâu sắc, tiếp thu rất nhanh và học tập vượt trội hơn nhiều so với người bình thường. Thái Tử vẫn luôn trăn trở khi được dạy rằng tất cả mọi thứ đều bắt đầu từ Phạm Thiên, do Phạm Thiên sinh ra nhưng kiềm chế không hỏi nữa để tránh làm các vị thọ sư phiền lòng.

Ngay trong quá trình tu học, những suy tư, trăn trở và hành động của Thái Tử cũng phần nào thể hiện cách nhìn nhận cặn kẽ mọi vấn đề cũng như sự quan tâm đến mọi người xung quanh không phân biệt tầng lớp, và thậm chí là tấm lòng yêu thương đến muôn loài trong vũ trụ. Có lần Vua Tịnh Phạn tính xử phạt quân lính vi phạm quy định, cũng nhờ Thái Tử xin Vua cha điều tra kỹ căn nguyên vấn đề một lần nữa nên Vua không phạt người vô tội. Thái Tử cũng từng chia sẻ với Vua cha về suy nghĩ rằng bản thân mình “mang ơn nhiều người quá”, ngay như biết ơn người lính canh gác bảo vệ hoàng cung. Trong một lần xuất cung, Thái Tử vui vẻ hỏi chuyện quan tâm đến những người dân thường. Người không đồng tình với quan điểm phân biệt dòng dõi vương tộc không tiếp xúc với tầng lớp dưới theo như ghi chép trong kinh điển. “Sau này, con sẽ viết lại kinh điển khác, bảo con người phải yêu thương tử tế với nhau không được phân biệt như vậy” – Thái Tử nói với mẫu hậu của mình. Đối với những con vật, Thái Tử cảm thấy chúng cũng có tâm hồn, rằng con ngựa cũng như cảm thụ được điệu nhạc người hát khi cưỡi ngựa. Người thương cảm và day dứt khôn nguôi khi chứng kiến cảnh con thỏ bị giết để lấy máu tế thần mà tâm sự với mẫu hậu: “Sau này, con sẽ làm một vị Vua khiến cho muôn loài yêu thương nhau, không giết hại nhau”.

Nhà Vua và Hoàng Hậu vui mừng khôn xiết khi nghe Thái Tử chia sẻ sau này sẽ làm Vua, không đi tu làm thánh như lời tiên đoán của trưởng tế Asita. Hai người chuẩn bị tới thăm thì nhận được tin ngài trưởng tế vừa mới từ trần, đành đi tiễn ngài cùng đoàn người với lòng tiếc thương vô tận.


TẬP 5: TẤM LÒNG BAO LA

Được sự hỗ trợ của ngài thị trưởng và các các binh sĩ, đoàn thương buôn do ngài ADHIKA làm trưởng đoàn đã vượt qua được đoạn đường thường bị mai phục, vào thành KAIPILAVATTHU (Ca Tỳ La Vệ) an toàn. Đoàn thương buôn đã dâng lên Đức Vua tấm bản đồ kho báu mà ngài mong chờ lâu nay cùng với hàng hóa mang theo. Tấm bản đồ này, do tổ phụ Đức Vua JAYASENA truyền lại cho nội tổ SIHAHANU nhưng đã bị lấy cắp trong cuộc chiến nhiều năm về trước. Lúc bấy giờ, tướng quân lỗi lạc ADHIKA nhận lệnh nhà Vua đóng giả thương buôn đi khắp nơi để dò tìm, nhưng mãi đến mười hai năm sau Ngài mới tìm thấy nó ở một bộ tộc phía nam MAGADHA (Ma Kiệt Đà).

Nhà Vua, Thái Tử và Hoàng Hậu đã cùng nghiên cứu về tấm bản đồ kho báu và cho thám tử dò la truy tìm. Xét thấy với kho báu này thì đất nước SAKYA do Vua SUDHODANA (Tịnh Phạn) cai trị sẽ trở nên hùng mạnh có thể chiếm lại KOSALA – vùng đất trước đây thuộc cai trị của dòng họ Gotama nhưng bị dòng tộc của Vua MAHA KOSALA chiếm đóng. Cùng với tài năng hơn người về võ nghệ, tài trí, học thuật và tướng mạo cường tráng chẳng ai sánh bằng của Thái Tử SIDDHATTHA (Tất Đạt Đa), nhà Vua cho rằng kho báu này ứng với lời tiên tri của các vị Bà La Môn: “Thái Tử phải trở thành một vị Vua của cõi diêm phù đề” khi vừa sinh được bảy ngày.

Lúc này, Thái Tử đã nguyện với Phụ Hoàng và Mẫu Hậu rằng: “Con sẽ làm nên một điều gì đó để toàn cõi diêm phù này sẽ kính trọng Phụ Vương và Mẫu Hậu mãi mãi”.

Ngày mới lại đến, Thái Tử tiếp tục học các loại binh khí phức tạp và chiến thuật đánh trận.

Thái Tử SIDDHATTHA (Tất Đạt Đa) múa gươm nhanh như gió, với những đường múa điêu luyện, ngài hầu như múa trên cao khỏi mặt đất. Thái Tử còn cưỡi ngựa bắn liên tiếp nhiều mũi tên, tất cả đều trúng đích. Thế trận khó của các vị thân giáo sư dựa trên một đồi núi bằng cát cũng không làm khó được Thái Tử. Sau khi đưa ra thế trận phá định, người nói: “Nhưng dù sao ta cũng cho chúng một con đường sống, ta nên dùng đức cảm hóa giặc, làm sao cho mỗi khi nghe đến SAKYA là gia đình các binh sĩ sẽ ngăn cản họ, không cho họ lên đường đánh ta. Ta phải chiến thắng kẻ địch từ tận trong tim của cha mẹ và vợ con họ, chứ không phải giết họ rồi gây thù truyền kiếp”.

Thái Tử nói những điều mà các vị thân giáo sư chưa ai nghĩ đến. Tất cả đều ngạc nhiên đến thán phục về lòng nhân hậu bao la của Thái Tử.

Các vị thân giáo sư dạy tiếp cho Thái Tử về vấn đề trồng trọt: “Ăn là nhu cầu lớn nhất của con người vì thế ai có nhiều ruộng lúa sẽ là kẻ giàu sang nhất, quốc gia nào có nhiều ruộng lúa sẽ hùng mạnh nhất. Trồng lúa cũng không đơn giản vì thế người nông dân phải biết cách trồng và triều đình cũng phải hỗ trợ cho họ”.

Thái Tử đáp: “Thưa các vị thân giáo sư, người nông dân trồng lúa rất vất vả nhưng lại nghèo đói. Chỉ có địa chủ thương buôn là no ấm giàu sang. Đây cũng là một bất công cần phải được triều đình quan tâm xử lý. Hiện nay, ruộng lúa tập trung nhiều vào giai cấp KHATTHIYA (Sát Đế Lợi) để nuôi sống binh sĩ. Số nông dân làm chủ miếng ruộng lúa của mình không phải nhiều. Ta cần phải có dư dả lúa gạo cho mọi người trong thời gian phát triển những điều cao quý khác như học đạo lý, cất thêm nhà, tu hành luyện tập… Muốn trồng được nhiều ruộng lúa, thì phải dỡ thêm đất, nuôi thêm trâu bò, rèn thêm cày bừa, xây thêm kho đụn. Như vậy, nghề làm ruộng đã kéo rất nhiều nghề khác đi theo. Triều đình quan tướng phải hiểu như vậy để phát triển mọi thứ đồng bộ như nhau”.

Các vị thân giáo sư rất bái phục về trí tuệ phi thường của Thái Tử, học một biết trăm. Nhiều khi thái tự tự suy luận ra những điều mà các ngài chưa nói ra hoặc chưa nhìn thấy.

Thái Tử cũng nghĩ ra cách viết mới trên thẻ tre thay vì ta khắc chữ bằng cách nung nóng mũi sắt và viết lên. Cách này được nhà Vua nhận xét là giúp chữ viết mềm và đẹp tuy nhiên lại tốn công nung mũi sắt. Có nơi người ta chế ra được loại mực đen viết lên lá cũng rất đẹp.

Thái Tử được các vị thân giáo sư dạy về do thám tình báo: “Do thám tình báo là xương sống của triều đình. Mất ngành này là vương triều sẽ sụp đổ. Lực lượng do thám phài trà trộn khắp nơi để biết mọi biến chuyển của nhân dân, và cũng phải nằm vùng ở nước ngoài để biết được ý đồ của các nước đối với ta ra sao. Đặc tính của lực lượng chiến sĩ do thám là phải cực kỳ bí mật, thứ hai đường dây liên lạc thông tin cực kỳ nhanh chóng, thứ ba là kỷ luật sắt thép, thứ tư là phải giỏi về mọi mặt: võ thuật, ngôn ngữ, mưu trí, kế hoạch. Đức Vua phải là người trực tiếp chỉ huy lực lượng này vì ai nắm lực lượng này rồi đều có thể dễ dàng chiếm ngôi. Bất cứ vương tử nào cũng phải được rèn luyện về kỹ luật tình báo từ rất nhỏ để lãnh đạo quốc gia về sau. Chỉ có người kinh qua rèn luyện tình báo thì mới đủ tài trí để cai trị quan tướng. Một thám tử giỏi có thể vào rừng sống với cọp, xuống nước sống với cá, gánh phân chung với Sadra (Thủ Đà La), vui đùa với Khattiya (Sát Đế Lợi), buôn bán với Vaisiya (Vệ Sá) hoặc ngồi tụng thần chú với BRAHMANA (BÀ LA MÔN). Thám tử giỏi có thể đến nước nào nói tiếng nước đó, có thể nhìn người nào biết được bản chất người đó.

Thái Tử nói: “Thưa các ngài thân sư, ngành tình báo lợi hại thật, ai mà ác tâm và chỉ huy lực lượng này sẽ gây họa khôn lường. Người từ ngành này ra có thể làm tướng cướp mà không ai bắt được. Vì vậy, phải có sự giáo dục rèn luyện đạo đức sâu này cho chiến sĩ tình báo. Con xin quý vị từ nay quan tâm đến việc giáo dục cho thám tử ạ”. Hết buổi học, Thái Tử cũng quay về hỏi Vua cha về tình hình thám tử của nước nhà và được Vua cha nói về tình hình thực tế lực lượng thám tử của đất nước.

Ngày tiếp theo, Thái Tử được học ngôn ngữ của các nước lân bang bao gồm: KOSALA, MAGADHA, LICCHAVI, VESALI, VAJI, VEDEHA, ÂNG, MORIYA, KOKIYA, MALLA, KALAMA, VẤM, KASI, AVANTI. Vì Hoàng Hậu và Đức Vua không muốn xa Thái Tử, không muốn Thái Tử phải đi đến các nước lân bang để học ngôn ngữ của họ như mình trước kia, nên các vị thân giáo sư đã hướng dẫn trước cho Thái Tử về ngôn ngữ của các nước, đồng thời mời người bản xử đến nói chuyện trực tiếp với Thái Tử để ngài thực hành. Chỉ trong thời gian ngắn Thái Tử đã có thể nói thuần thục tất cả các ngôn ngữ trên. Ngài cũng không quên cảm ơn sự vất vả của các vị thân giáo sư.

Một hôm, trên đường đi dạo phố cùng tùy tùng, Thái Tử gặp một số nhà tu khổ hạnh đang thực hiện động tác chồng người ngược thân, ít ai có thể làm được. Thái Tử liền hỏi tùy tùng bên cạnh và được giải thích rằng: “Những người tu khổ hạnh này thường xuất hiện ở ven đường, bên bờ sông, nơi công viên, tự hành xác mình như thế để ai nhìn thấy cũng phải bái phục về khả năng khống chế bản thân của họ. Người đi qua lại sẽ cúng dường vào bát ở bên cạnh vị đó”.

Về đến hoàng cung Thái Tử liền hỏi ngài thân giáo sư về mục đích của các nhà tu khổ hạnh đó và được giải thích rằng: “Đó là một trường phái tu hành đã xuất hiện lâu đời. Họ cũng luyện thể lực giống như luyện võ thuật vậy nhưng sau đó họ không chuyển qua học chiến đấu mà tiếp tục luyện mãi các tư thế đó. Vì họ tin rằng, nếu khống chế thân thể đến tột cùng, họ sẽ được giải thoát”.

Lần đầu tiên nghe tới GIẢI THOÁT, Thái Tử liền hỏi vị thân giáo sư về ý nghĩa của hai từ này và được giải thích rằng: “Giải thoát là sự thoát khỏi luân hồi tái sinh, chứng nhập cảnh giới niết bàn vi diệu. Mọi người hiểu như thế, nói như thế, nhưng chưa ai thực sự giải thoát cả”. Từ đó, Thái Tử cứ suy nghĩ mãi về hai từ này, có lẽ ngài sẽ tìm cho mình về con đường riêng để thoát khỏi luân hồi tái sinh như các vị thân giáo sư nói.

Một ngày nọ, trong một buổi hóng mát tại vườn hoa cùng Hoàng Hậu, Đức Vua đã kiểm tra khả năng xoay sở của Thái Tử giữa rừng tên bắn tới tấp, xem khả năng phản xạ của ngài thế nào. Ngạc nhiên thay, Thái Tử đã vượt qua tất cả thử thách rất xuất sắc, ai nấy cũng đều ngưỡng mộ về khả năng của ngài. Đức Vua nói thêm: “Cung tên bắn thật sẽ nguy hiểm hơn nhiều so với những que phóng bằng tay như những thử thách Thái Tử đã vượt qua, vì tốc độ và sức công phá của mũi tên nhanh và mạnh hơn nhiều. Vì thế sau này Đức Vua sẽ cho Thái Tử bắn thử cây cung cực nặng, có sức công phá rất lớn trong đền thờ tổ phụ JAYASENA”.

Thái Tử lại quay lại với các buổi học với các vị thân giáo sư vào những ngày tiếp theo. Lần này, các vị thân giáo sư đã dạy thêm cho Thái Tử về tố chất, tài năng cần có của một vị Hoàng Đế ở mức độ cao hơn, khó hơn là khả năng đoán trước sự việc, khả năng xét đoán con người để dùng người cho đúng.

Để tiên đoán sự việc xảy ra, ta có thể xem một số điềm báo xảy ra lúc đó như tiếng gió thổi, hoa rơi, tiếng con vật nào kêu, vật nào rơi rớt, có ai bất chợt bước vào, trời đất lúc đó ra sao… Phương pháp này lại không có nguyên tắc cố định chỉ dự đoán bằng trực giác mà thôi.

Xét đoán người có ba phần. Phần một là đoán tính cách thiện ác, giỏi kém của người đó. Phần hai là đoán quá khứ của người đó. Phần ba là đoán tương lai của người đó.

Một buổi sớm nọ, Thái Tử cùng năm vị thân giáo sư ra khỏi thành đến khu rừng Lumbini ở phía đông nơi Thái Tử được sinh ra. Cả sáu người đã dừng chân lại một khu rừng tuyệt đẹp, hoa cỏ xanh tươi, cây cao bóng mát, chim muông bay lượn, cầm thú tung tăng. Bỗng một tiếng “rắc” vang lên, mũi tên của một vị thân giáo sư đã bị mũi tên của Thái Tử gạt mất khi nó gần bắn trúng một chú nai trong rừng. Lúc này, Thái Tử xuống ngựa và nói: “Thưa ngài thân giáo sư, con thật sự xin lỗi ngài, nhưng con xin phép ngài cho các loài thú ở đây được sống thanh bình ạ”. Các vị thân giáo sư ai ai cũng khâm phục về trí tuệ, tài bắn cung tuyệt vời cũng như lòng nhân ái bao la của Thái Tử. Lòng nhân ái đó, cảm động cả trời đất, ngay cả hổ trong rừng cũng chỉ cúi đầu bỏ đi khi gặp ngài. Chim muông cũng đến bay đến lượn nhiều vòng để chiêm bái ngài. Tại đây Thái Tử cũng đã cầu nguyện cho Mẫu Hậu của Người – Hoàng Hậu PAJAPATI – ở cõi giới bên kia được nhiều phước lành. Thái Tử thật là một người có trí tuệ và đạo đức vẹn toàn.

Trong buổi thiết triều đầu tiên mà Đức Vua cho Thái Tử tham dự cùng, Thái Tử đã thấy được căn bệnh trầm kha của các vị quan tướng, tuy rằng họ nhiệt tình bàn luận việc nước, nhưng lại gắn thêm vào đó vào lợi ích cá nhân của mình. Nếu Vua không tinh tế nhận ra thì sẽ bị qua mặt dễ dàng.

Quay lại với tấm bản đồ kho báu, thám tử đã dò la được kho báu hiện đang ở trong tay một bộ tộc thuộc quyền cai trị của KOSALA. “Âu cũng là số phận, vì thế hoặc là từ phải chia sẻ kho báu này với bộ tộc đó, hoặc là ta phải mua lại khu vực của họ một cách sòng phẳng”. Thái Tử nói với nhà Vua và có lẽ ngài đã giúp Đức Vua giải tỏa được nỗi lo lắng bấy lâu nay khi kho báu của mình lại nằm trên lãnh thổ của quốc gia khác.

Các vị giáo sư dạy cho Thái Tử vận khí, di chuyển trên mặt nước. Nhưng lạ thay, các vị thân giáo sư phải chạy thật nhanh thì cơ thể mới không bị chìm xuống nước nhưng Thái Tử chỉ cần chạy chậm rãi là có thể nổi trên mặt nước rồi. Chỉ có người có công lực rất mạnh mới có thể làm được như vậy. Các vị thân giáo sư ai ai cũng ngạc nhiên và nể phục về khả năng của Thái Tử.”

Ở độ tuổi mười hai Thái Tử đã nuôi trong mình ước mơ, mong sao loài người bình đẳng yêu thương nhau. Phá vỡ truyền thống phân chia giai cấp bao đời như giai cấp người KHATTIYA (Sát Đế Lợi) lo trị nước, người BRAHMANA (Bà La Môn) lo việc tế tự. Người VAISIYA làm các ngành nghề. Còn người SUDRA phải làm nhiệm vụ hốt phân.

Không những thế, Thái Tử còn trân quý từng sản phẩm và công sức lao động của người làm nên từng sản phẩm ấy. Ngài đau xót và lo lắng khi thấy người dân của mình vẫn để thân trần làm việc. Ngài nặng lòng khi xã hội còn có sự phân biệt giàu nghèo. Người giàu càng giàu thêm, người nghèo lại càng khó nhọc. Ngài ước nguyện sẽ tìm ra cách gì đó để con người đừng sai biệt quá về giai cấp giàu nghèo như vậy và ngài tin rằng phải có một điểm gì đó để tâm hồn con người đều giống nhau, khi ấy con người trở nên đạo đức giống nhau và sẽ tạo phước như nhau. Lúc ấy, có lẽ sẽ không còn sự khác biệt này nữa.

Các vị thân giáo sư cùng Thái Tử cải trang ra ngoài thành trong bảy ngày. Một mặt, giúp Thái Tử biết cách biến đổi hình dạng theo nghiệp vụ do thám. Mặt khác, kiểm tra khả năng phân tích đánh giá con người của Thái Tử khi nhìn thoáng qua một người. Tuy Thái Tử đã mặt thường phục và hóa trang cẩn thận để mọi người không nhận ra, thế nhưng vẻ đẹp của người vẫn không thể rời mắt người dân nơi đây, khiến họ phải trầm trồ thốt lên “Sao lại có chàng trai đẹp hơn tất cả mọi điều trên đời thế này”. Thấy thế, năm vị thân giáo sư liền kéo Thái Tử SIDDAHATTHA (Tất Đạt Đa) qua khúc đường khác và cải trang gương mặt thêm nữa.

Chuyện nhận xét đánh giá con người không hề dễ, không ai có thể nhìn một cái mà biết hết về con người được, có khi nghiệp che lại khiến chúng ta bị lầm. Thế nhưng Thái Tử đã có thể đưa ra đánh giá khá chính xác. Mặc dù không được một trăm phần trăm, mặc dù vẫn cần các vị thân giáo sư bổ sung. Thế nhưng, Ngài đã là học trò giỏi nhất trong các học trò của các thân giáo sư từ trước đến nay. Với tài năng xuất chúng như vậy, các vị giáo sư đã gợi ý cho Thái Tử về một uy quyền phủ trùm bằng cách can thiệp, chi phối các nước lân bang. Và các ngài cũng tin rằng Thái Tử sẽ là một vị Vua siêu tuyệt, uy quyền hiển hách. Nhưng Thái Tử lại mong các nước có thể sống yên bình bên nhau. Ngài thấy rằng, uy quyền của một vị cũng chỉ là tạm bợ mà thôi. Không đủ sức giải quyết hết những nỗi đau của chúng sinh. Có lẽ, có một con đường nào đó mà ngài chưa biết có thể giúp con người tìm được hạnh phúc vĩnh cửu.

Đêm đêm, phòng của Thái Tử có ánh sáng phát ra giống như có thiên thần hộ vệ khi ngài lặng lẽ ngồi thiền trong phòng riêng. Khi bình minh lên, Thái Tử lại ôn luyện võ thuật rất chăm chỉ. Thời gian rảnh, Thái Tử còn làm thơ gửi hết tình yêu thương chúng sinh vào đó:

“Mùa xuân tiếng chim vui

Mùa xuân cánh hoa tươi

Mong người thương nhau mãi

Để hạnh phúc đừng vơi”.

Sau vài trận mưa rào, cũng là thời điểm Đức Vua làm lễ hạ điền cầu cho mùa màng tươi tốt. Lần này, Đức Vua dự làm lễ Hạ Điền ở xa kinh thành một chút, vào giữa đám ruộng nơi có vài bóng cây to để khiến mọi người thấy lạ và vui hơn. Nhân cơ hội này, các vị thân giáo sư cũng tranh thủ dạy cho Thái Tử kỹ năng đoán biết thời tiết vì nó rất quan trọng để định liệu kế hoạch.

Trong lễ Hạ Điền, Đức Vua cùng Thái Tử làm lễ tế trời đất và đặt những lưỡi cày đầy đầu tiên. Thái Tử SIDDHATHA (Tất Đạt Đa) nhìn một tàng cây cao ở gần bờ đất, rồi lặng lẽ đi về phía đó ngồi thiền. Mặt trời phía đông đang chiếu, Thái Tử SIDDHATHA (Tất Đạt Đa) ngồi xuống dưới bóng cây ở phía tây. Đằng kia mọi người vẫn đang náo nức, Vua cày xong rồi lại đến quan. Lúc mọi người thu cày về bờ đất, chia nhau thức ăn thì ai ai cũng ngạc nhiên sửng sốt nhìn khi thấy ánh mặt trời nghiêng về phía tây dần, tàng cây che bóng cho Thái Tử bỗng nhiên ngã ngọn về phía tây tiếp tục che bóng cho Thái Tử. Vua bỏ thức ăn xuống cùng người dân tiến về phía cây đa. Khi đến gần, Đức Vua và tất cả mọi người chợt chắp tay cúi chào SIDDHATTHA (Tất Đạt Đa). Thái Tử SIDDATTHA (Tất Đạt Đa) vẫn ngồi bất động.

Ai nấy đều đứng yên chiêm ngưỡng hình ảnh Thái Tử ngồi thiền đẹp đẽ như ngọn núi châu báu chưa từng có này. Thái Tử mở mắt ra, duỗi chân đứng dậy, bước ra khỏi tàng cây, chắp tay chào Vua và mọi người. Tàng cây từ từ trả lên cao trở lại như cũ và đoàn người trở lại kinh thành.


TẬP 6: HOA SEN TINH KHIẾT

Mở đầu tập sáu là cuộc trò chuyện của năm vị thân giáo sư với Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn). Các vị thân giáo sư thưa với Đức Vua rằng trong suốt mười năm qua đã dốc lòng dạy dỗ Thái Tử trở thành một chiến sĩ Khattiya (Sát Đế Lợi) vĩ đại. Một vị Vua tương lai của đất nước Sakya. Thái Tử bây giờ giống như một con voi chúa, hùng vĩ như một ngọn núi tuyết xa xa. Tài nghệ thì như dòng sông Hằng không bao giờ vơi cạn. Chỉ mới mười sáu tuổi mà Thái Tử đĩnh đạc như một tráng niên gần ba mươi tuổi, chẳng ai dám xem thường. Trí tuệ của Thái Tử phi phàm, học một biết trăm, học trăm biết ngàn. Những năm về sau, Thái Tử gần như tự nghiên cứu tìm hiểu là chính, thỉnh thoảng mới hỏi ý kiến của các giáo sư. Và thật ra, các vị thân giáo sư chẳng còn gì dạy thêm được nữa. Các vị bày tỏ lòng nhớ thương quê nhà và mong muốn được trở về quê hương. Dù Đức Vua và Thái Tử rất muốn giữ các vị lại kinh thành để tỏ lòng biết ơn công lao dạy dỗ. Thái Tử ngậm ngùi chia tay các vị giáo thọ sư. Thái Tử nhìn theo đoàn xe ngựa rời xa đến khi chỉ còn bụi đường bốc lên.

Hoàng thúc Amitodhana về thăm có dẫn theo Mahanama và người con trai hai tuổi là Ananda (A Nan) cùng về. Trong buổi nói chuyện thân tình việc thành gia lập thất cho Thái Tử được đề cập đến. Thái Tử bày tỏ việc không muốn cưới vợ. Tuy nhiên Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) kiên quyết cưới vợ cho Thái Tử. Đức Vua lo sợ lời tiên tri năm xưa trở thành hiện thực. Thái Tử sẽ xuất gia làm sa môn.

Công Nương Yashodara (Da Du Đà La) (tên khác là Bhaddakaccana, con cô con cậu với Thái Tử) đức hạnh và tài năng phi phàm được lựa chọn. Mọi người trong hoàng cung rộn ràng chuẩn bị hôn lễ cho Thái Tử. Thái Tử nhìn mọi người lòng buồn rười rượi, đăm chiêu…

Đoàn rước dâu thấp thoáng từ xa tiến về kinh thành Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ). Mọi người nô nức ra xem, Vua, Hoàng Hậu, Thái Tử, nhiều quyến thuộc hoàng gia cùng ra nghênh đón đoàn người rước dâu từ Devadaha. Thái Tử Siddhattha (Tất Đạt Đa) đi bên cạnh Công Nương Yashodara (Da Du Đà La), cả hai trông như thiên thần từ cõi trời xuống.

Và theo tục lệ, trong ngày cưới Thái Tử phải biểu diễn tài nghệ cho thần dân xem để mọi người biết là Thái Tử đã trưởng thành đủ sức mạnh gánh vác giang sơn. Đây là lần đầu tiên và dường như cũng là lần duy nhất trong đời ngài dùng đến võ thuật. Lúc đó, trong đền thờ của Hoàng Tộc có một cây cung thần. Dây của cây cung được làm từ xương của con sơn dương cứng và dai. Cán cung cao hơn cả đầu người và làm từ một loại kim loại đặc biệt. Và cả mấy trăm năm qua không có ai nhấc nổi, không ai đủ sức giương cây cung bắn. Lúc đó, năm người mới đủ sức vác cây cung ra và hai người mang mũi tên ra khỏi đền thờ. Thái Tử giương cung bắn mũi tên ra. Tương truyền, mũi tên xé gió xuyên qua bảy cái trống đồng và rơi xuống tạo thành một cái ao. Mọi người reo hò vang dội và tin rằng Thái Tử là người trời xuống để đem vinh quang cho dòng dõi. Thái Tử cũng biểu diễn cưỡi ngựa, múa gươm và đổi ngựa trên lưng. Cuối cùng là màn đấu võ với một trăm vệ sĩ.

Đoàn rước dâu thấp thoáng từ xa tiến về kinh thành Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ). Mọi người nô nức ra xem, Vua, Hoàng Hậu, Thái Tử, nhiều quyến thuộc hoàng gia cùng ra nghênh đón đoàn người rước dâu từ Devadaha. Thái Tử Siddhattha (Tất Đạt Đa) đi bên cạnh Công Nương Yashodara (Da Du Đà La), cả hai trông như thiên thần từ cõi trời xuống.

Và theo tục lệ, trong ngày cưới Thái Tử phải biểu diễn tài nghệ cho thần dân xem để mọi người biết là Thái Tử đã trưởng thành đủ sức mạnh gánh vác giang sơn. Đây là lần đầu tiên và dường như cũng là lần duy nhất trong đời ngài dùng đến võ thuật. Lúc đó, trong đền thờ của Hoàng Tộc có một cây cung thần. Dây của cây cung được làm từ xương của con sơn dương cứng và dai. Cán cung cao hơn cả đầu người và làm từ một loại kim loại đặc biệt. Và cả mấy trăm năm qua không có ai nhấc nổi, không ai đủ sức giương cây cung bắn. Lúc đó năm người mới đủ sức vác cây cung ra và hai người mang mũi tên ra khỏi đền thờ. Thái Tử giương cung bắn mũi tên ra. Tương truyền, mũi tên xé gió xuyên qua bảy cái trống đồng và rơi xuống tạo thành một cái ao. Mọi người reo hò vang dội và tin rằng Thái Tử là người trời xuống để đem vinh quang cho dòng dõi. Thái Tử cũng biểu diễn cưỡi ngựa, múa gươm và đổi ngựa trên lưng. Cuối cùng là màn đấu võ với một trăm vệ sĩ.

Lần đầu tiên nhìn thấy Yashodara (Da Du Đà La), Thái Tử biết được đây là người phụ nữ định mệnh của đời mình. Sau hôn lễ, đôi trẻ trông rất đẹp đôi và tâm đầu ý hợp. Điều này làm Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) an tâm, nghĩ là mình đã tính toán đúng. Nhưng có một điều Vua không ngờ được. Đó là đôi trẻ đã bí mật giao ước với nhau, chỉ sống với nhau như đôi bạn. Công Nương Yashodara (Da Du Đà La) cũng là một người có khuynh hướng tâm linh, hướng về tu hành. Thái Tử thì đã chứng Sơ thiền từ khi mười hai tuổi nên đã đoạn trừ ái dục. Cả hai hay rủ nhau ra ngoài để tiếp xúc với dân chúng về góp ý với Vua cha để lo cho dân. Công Nương Yashodara cũng theo chồng tập luyện khí công và ngồi thiền. Công Nương Yashodara từ bé cũng được phụ thân Suppabuddha dạy võ nghệ. Theo yêu cầu của Vua và Hoàng Hậu, Công Nương giao đấu với sáu cung nhân. Trong chớp mắt, các cung nhân đều bị đánh ngã. Công Nương biểu diễn tài bắn tên xuyên qua quả xoài nhưng trái xoài cũng không rớt xuống… Vua và Hoàng Hậu rất hài lòng với Công Nương.

Mỗi đêm khi ánh trăng nghiêng ở góc trời, trong phòng Siddhattha và Yashodara vẫn ngồi thiền lặng lẽ.

Thái Tử phụ giúp Vua cha công việc triều chính. Công Nương thay Thái Tử dạy dỗ các cung nhân làm việc và không bao giờ được hoang phí: nước phải uống hết bát, cơm phải ăn hết nồi. Nếu dư phải chia sẻ, không được vứt bỏ một chút cơm nước nào của trời đất. Các cung nhân cũng được dạy ngồi thiền để tâm họ an tĩnh, làm việc tập trung hơn.

GHI NHỚ: Trong tập sáu, chúng ta hiểu rõ hơn về tài năng và đức độ của Thái Tử và Công Nương. Đồng thời hiểu được nhân duyên tốt đẹp của cả hai. Ta vô cùng ngưỡng mộ đức hạnh của Công Nương Yashodara đã hết lòng ủng hộ con đường tu hành của Thái Tử. Và Công Nương cũng nguyện đi theo con đường đó không ngần ngại gian khổ hay cái chết. Tình cảm này thanh khiết như đóa hoa sen.


TẬP 7: VỊ VUA KHÔNG NGAI

Câu chuyện kể về cuộc đời Đức Phật khi Ngài còn là Thái Tử. Năm ấy, Thái Tử Tất Đạt Đa ở độ tuổi hai mươi. Thời điểm đó thì Thái Tử các nước khác đang chuẩn bị lên ngôi Vua. Vua cha SUDHODANA (Tịnh Phạn) cũng muốn con trai mình là Thái Tử Tất Đạt Đa ra mặt điều hành công việc trong triều đình. Vua cha biết tài năng của Thái Tử là trùm khắp cả thiên hạ, nếu cần có thể đem quân thu phục các nước khác. Nhưng Thái Tử chỉ muốn đứng sau hậu thuẫn cho cha mình và cho rằng chuyện đao binh chinh chiến làm chết chóc đau khổ cho nhiều sinh linh, chi bằng âm thầm giúp các nước sống trong hòa bình với nhau âm thầm xây dựng một hệ thống thám tử khắp nơi nhằm tác động vào công việc nội bộ của các nước khác để ngăn chặn những điều sai lầm như gây hấn chiến tranh, ngăn chặn ra các luật hà khắc với dân… Mặc dù, không ra mặt làm Vua, nhưng lại làm tất cả những chuyện của một vị Vua nên Vua cha rất hài lòng vì Thái Tử đang dần trở thành một VỊ VUA KHÔNG NGAI điều khiển hết các nước.

TRONG HOÀNG CUNG

Một ngày kia, tại chuồng ngựa có một con ngựa tên là Kiền Trắc mới vừa được biếu tặng. Chú ngựa rất đẹp và khỏe, có điều là không ai thu phục được, nó rất hung hãn và không cho ai đến gần. Thái Tử thấy vậy nắm dây cương kéo nó ra khỏi chuồng, nó vùng vẫy nhưng không cưỡng nổi sức kéo của Thái Tử. Nó lồng lên hí vang trời, Thái Tử giữ chặt một hồi nó mới chịu đứng im. Rồi Người truyền lòng từ bi sang, nhảy lên phi trên lưng nó rồi cùng với Công Nương Yashodara (Da Du Đà La) đi ra cổng thành…

Trong một buổi gặp gỡ các hoàng thân trong gia tộc Thích Ca, Thái Tử và các hoàng thúc của mình hỏi thăm nhau về chuyện đất nước, các anh chị em trong gia tộc. Trong đó, có hoàng đệ Ananda (A Nan) càng lớn càng đẹp trai ra. Đặc biệt, mới sáu tuổi mà ai nói đâu nhớ đó không sót một chữ nào. Hoàng huynh Mahanama thì đã lớn có vợ con, đã tự xây dựng cơ ngơi riêng… Riêng DEVADATTA (Đề Bà Đạt Đa) làm Thái Tử lo lắng nhất vì em nó nhiều mưu tính quá.

Sau khi kết thúc buổi gặp gỡ, Thái Tử vào phòng mẫu hậu thăm đứa em trai Nada (Nan Đà) và em gái Sundari Nan Đà. Nan Đa thì rất khỏe mạnh, còn Sundari thì đẹp như thiên thần, Thái Tử rất mong mỏi Nanda (Nan Đà) mau lớn để kế nghiệp cha mình để mình còn tiện đường ra đi. Khi ấy, Vua cha cũng bước vào phòng và cùng bàn chuyện lấy lại kho tài sản của tổ tiên bị thất lạc và dự định sau này sẽ cho Thái Tử nhiều thứ nhưng Thái Tử chỉ muốn để lại cho Nanda (Nan Đà) kế nghiệp chứ không tham tài sản.


Để hai người lớn bàn chuyện, Thái Tử và Công Nương Yashodara trốn ra ngoài đi dạo rồi ngồi tâm sự, Công Nương hiểu được tâm tìm cầu chân lý của chồng nhưng lại lo lắng vì phụ vương đã lớn tuổi còn Nan Đà thì còn quá nhỏ.

Thái Tử nói: “Yashodara à, ta sẽ sắp xếp mọi việc yên ổn rồi mới ra đi. Ta biết khi ra đi sẽ làm nhiều người buồn, nhưng ta không thể cưỡng lại được sự thôi thúc của nội tâm, phải đi tìm ra chân lý tuyệt đối. Thế gian này tạm bợ và bất an, phải có một đạo lý giúp chúng sanh giải thoát”.

Chính vì mục tiêu cao cả ấy, Thái Tử đã từng ngày xây dựng cả hệ thống vương quyền vô hình trùm hết các nước để ngăn chặn chiến tranh ở các nước và bảo vệ Sakya từ xa. Giờ chỉ đợi khi hệ thống hoàn chỉnh và Nan Đà lớn là Thái Tử ra đi… Yashodara xin theo nhưng Thái Tử không cho vì làm Sa môn thì không thể dắt vợ theo và từ lâu đã ấp ủ muốn thử tập luyện nhiều thế luyện thân khổ hạnh với cường độ cao hơn người bình thường.
Trong một đêm nọ, các thám tử về báo cáo tình hình là nước Kosala đang nguy cấp vì Thái Tử Pasenadi có thể sẽ không lên ngôi Vua được vì sẽ bị hãm hại. Thái Tử chỉ lại cách điều hành nhóm thám tử cho Công Nương Yashodara rồi đích thân cưỡi ngựa Kiền Trắc trong hai đêm liền đến Kosala để trực tiếp chỉ đạo mọi việc bên đó.

Sau vạch trần âm mưu của các hoàng tử khác muốn hại hoàng tử Pasenadi xong, Thái Tử Tất Đạt Đa quay trở về nước, Công Nương giao lại “thẻ bài” điều khiển thám tử cho Thái Tử nhưng Thái Tử bảo Yashodara cứ giữ đi, tập điều hành dần cho quen. Việc muốn Công Nương Yashodara giữ lại thẻ bài cũng là một trong các dự tính của Thải tử chuẩn bị cho lúc mình ra đi xuất gia.

Vì muốn giữ chân Thái Tử, không muốn Thái Tử đi xuất gia, Vua cha đã xây cho ba toà lâu đài cho các điều kiện thời tiết khác nhau. Nhưng ước mơ lớn lao của Thái Tử vẫn không hề lay chuyển được.

Thái Tử nói với Công Nương Yashodara: “Ta sẽ dạy cho tất cả mọi người trong ba lâu đài này biết ngồi thiền, để cho ai cũng có một đạo lý sống cao thượng. Thế gian này tạm bợ, ai rồi cũng phải già, bệnh và chết. Ta phải đi tìm một cái gì bất tử”.

Thời gian tiếp theo thì nước Vesali bất ổn phân tách ra làm hai phe đối lập có thể dẫn đến chiến tranh. Chỉ có cuộc kết hôn của Vua BIMBISARA (Bình Sa) và công chúa Videhi (Vi Đề Hi) mới làm êm xuôi chuyện này. Hai người đó đã có hôn ước nên Thái Tử dặn dò các thám tử là làm sao để cho cuộc kết hôn diễn ra êm đẹp là xong. Nhưng khi gần kết hôn thì lại có biến bởi vì công chúa Videhi (Vi Đề Hi) đã yêu công tử Risha – con của một vị tướng quân. Hay tin nên Thái Tử cùng Yashodara và đoàn thám tử đến ngăn chặn. Thái Tử khuyên Risha không nên vì tình riêng mà hãy nghĩ cho đại cuộc.

Risha không nghe nên xông vào đánh, hai phe hai bên đánh một hồi sau khi mà thua rồi thì mới chịu nghe Thái Tử nói: “Cả ngươi và công chúa phải hiểu được việc lớn, chuyện tình cảm cá nhân không có giá trị bằng vận mệnh của đất nước. Làm người lãnh đạo phải biết hy sinh. Hãy suy nghĩ lời của ta nói, tình cảm vốn dĩ rất vô thường, ngươi hãy cố nén đau thương”. Và Thái Tử cũng dặn dò công chúa Videhi (Vi Đề Hi): “Công chúa hãy nhớ lời ta dặn, chuyện tình yêu nam nữ mong manh dễ thay đổi. Vận mệnh đất nước mới là bổn phận thiêng liêng của mình”. Xong chuyện Risha ngậm ngùi nhìn Videhi (Vi Đề Hi) quay về hoàng cung… Thế là mọi việc ổn thỏa cuộc kết hôn của Vua Bình Sa và công chúa Videhi cũng diễn ra, đất nước ổn định trở lại.

Dù đã xảy ra rất nhiều việc nhưng cũng giải quyết ổn thỏa hết, lực lượng thám tử vẫn báo cáo và nhận lệnh đều đặn. Trong hoàng cung, mỗi ngày Công Nương Yashodara đều quỳ xin Chư Thiên cho mình một đứa con, nàng khao khát một đứa con trong khi Thái Tử lại không nghĩ đến chuyện vợ chồng vì năm mười hai tuổi khi chứng được Sơ Thiền thì tham dục đã tắt hoàn toàn.


Khi ở trong tòa lâu đài mà Vua cha xây cho, Thái Tử xót xa cho các thân phận người lạnh lẽo ngoài trời đang mưa và cho rằng do nghiệp sai biệt của chúng sinh chi phối khổ vui, chứ không tin vào số phận sướng khổ khác nhau là do vị thần thánh nào ban tặng cả. Thái Tử tin rằng mình có thể tìm ra một chân lý tốt hơn. Chợt thám tử đến báo tin mấy ngày nay mưa dầm dề ở phương Đông, có một du sĩ đứng một chân vắt lên cổ suốt hai ngày. Hay tin Thái Tử đã cùng thám tử cưỡi ngựa trong mưa để tìm gặp vị ấy. Đến nơi Thái Tử hỏi: “Thưa hiền giả, người luyện công này để đạt được mục đích gì?” Vị du sĩ trả lời: “Thưa cư sĩ, thân là cội nguồn của ràng buộc sinh tử. Nếu ai khống chế làm chủ được thân thì sẽ giải thoát khỏi ràng buộc sinh tử. Giữa trời mưa tôi đã đứng được như vậy suốt hơn hai ngày”.
Rồi hai người quay về hoàng cung, Thái Tử thì ngày càng suy tư nhiều hơn…


TẬP 8: XUẤT GIA

Vào một buổi chiều thu tại cung hoàng cung, công nương YASHODARA (Da Du Đà La) báo tin cho Thái Tử SIDDHATTHA (Tất Đạt Đa): “Tháng trước thiếp có nằm mộng thấy một vầng ánh sáng bay từ trên trời vào bụng thiếp. Thế ri bây giờ thiếp có dấu hiệu có thai”.
Thái Tử SIDDHATTHA (Tất Đạt Đa) nghe tin vui mừng đáp: “Một vị nào đã lắng nghe lời cầu nguyện của nàng, đã dùng mật hạnh đệ nhất của mình vào thai, vừa giúp nàng toại nguyện, vừa giúp ta toại nguyện. Phụ vương ta kể rằng trước kia mẫu hậu cũng mộng thấy một con voi sáu ngà từ trên trời đi vào bụng rồi hoài thai ta, chứ ta không phải được sinh ra theo cách thông thường”.
Công nương YASHODARA (Da Du Đà La) buồn bã đáp: “Nếu nói cho Phụ vương và mẫu hậu nghe thì hai người sẽ mừng lắm, nhưng thiếp biết đây là dấu hiệu chúng ta sắp chia tay nhau”.
Thái Tử ôm Công nương vào lòng an ủi Người.
Tin vui về công nương YASHODARA (Da Du Đà La) hoài thai nhanh chóng đến tai vua cha. Vua cha và Hoàng hậu hết sức vui mừng. Trong lúc bàn về chính sự.

Vua cha chợt hỏi Thái Tử SIDDHATTHA (Tất Đạt Đa): “Này SIDDHATTHA tình hình ở KOSALA thế nào rồi?
Thái Tử đáp: “Thưa phụ vương, vua PASENADI (Ba Tư Nặc) tỏ ra là người có tài cai trị, kiểm soát đất nước rất tốt. Thỉnh thoảng lại phải đem quân ra biên giới phía tây để đánh giặc một chút, phía đông có chúng ta giữ yên rồi. Bạn của PASENADI (Ba Tư Nặc) phong làm đại tướng cầm quân đánh giặc rất giỏi”.
Về lực lượng thám tử của Thái Tử hoạt động rất tốt và Thái Tử luôn cho người nằm bên cạnh vua PASENADI (Ba Tư Nặc) để giúp vua điều hành mọi việc cũng như các nước khác cũng như vậy.

Thái Tử tuy chưa làm Vua nhưng được xem như là vị vua không ngai vàng, là Vua của các vua giúp giữ yên bờ cõi, mối giao hảo của các nước với nhau.
Trong hoàng cung, nhà vua và Hoàng hậu PAJAPATI (Bà Xà Ba Đề) đang tranh luận với nhau. Hoàng Hậu PAJAPATI (Bà Xà Ba Đề) cho Thái Tử hay Bà La Môn KONDANNA (Kiều Trần Như) và bốn thanh niên Bà La Môn khác (tên là VAPPA, ASAJI (A Xà Chí), MAHANAMA, BHADDIYA) đòi xuất gia làm sa môn. Nhưng hiện tại họ nấn ná chưa chịu xuất gia liền vì muốn đợi Thái Tử xuất gia thành Phật như lời tiên đoán của trưởng tế ASITA.
Ngay lúc đó, Đức Vua phản bác lại lời của Hoàng hậu PAJAPATI (Bà Xà Ba Đề). Đức vua cho rằng: các nước chung quanh đang sôi sục nao nức về vị Chúa công mà họ không biết rõ là ai. Nhưng đã điều khiển hết mọi chuyện trong triều đình của họ. Họ muốn biết và tôn vị Chúa công đó lên làm bá chủ, chuyển luân vương, vua của tất cả các nước. Theo tin tức của các thám tử báo về. Ban đầu các vua không chịu có một thế lực bí mật nào chi phối, điều khiển triều đình của mình, nhưng dần dần các vua nhận ra rằng sự chi phối đó lợi cho đất nước của họ. Còn các quan tướng thì nghe lời vị Chúa công trong bóng tối nhiều hơn. Đến nay hầu hết các Vua đều bày tỏ lòng mang ơn vị Chúa công trong bóng tối và thực sự muốn Chúa công xuất hiện để lên làm minh chủ chuyển luân vương vua của các vua.

Đức Vua muốn Thái Tử lên làm Minh Chủ Chuyển Luân Vương, đó là vinh quang cho cả dòng dõi GOTAMA và đất nước SAKYA.
Tuy nhiên, Thái Tử thì lại nghĩ rằng: “Việc bí mật điều khiển hết các nước là vì muốn các nước sống hòa bình với nhau, muốn bảo vệ đất nước SAKYA chứ không muốn làm
Minh Chủ Chuyển Luân Vương”.
Đức Vua lại cho rằng Thái Tử nếu có muốn cũng không được vì đây là số phận mà trời cao đã sắp đặt. Nếu Thái Tử không ra mặt để làm
Chuyển Luân Thánh Vương sớm thì sẽ có nhiều kẻ giả mạo gây ra nhiều chuyện rắc rối.
Thái Tử đáp lại:
“Thưa Phụ vương, chẳng có kẻ nào dám liều lĩnh làm chuyện này. Vì không thực sự nắm quyền thì chẳng ai nghe lời mình. Quyền lực mà chúng ta xây dựng trùm hết các nước cũng phải dày công lắm. Tốn gần phân nửa kho tàng gia tài của tổ tiên, hơn nữa biết bao nhiêu kế hoạch, đào tạo con người, sắp xếp đủ thứ, vượt qua biết bao nhiêu chướng ngại mới được như ngày hôm nay”.

Đức Vua dự định chia phân một phần gia tài cho các người trong hoàng tộc. Một phần giữ lại để Thái Tử SIDDHATTHA (Tất Đạt Đa) làm việc triều chính, sau này còn bao nhiêu thì cho NANDA (Nan Đà), SUNDARI, con của YASHODARA (Da Du Đà La).
Trời về đêm mùa đông lạnh giá.


Trong cung Thái Tử dự định chuyển giao việc điều hành hệ thống Thám tử cho công nương YASHODARA nên ngồi Thiền suốt đêm và đề nghị công nương YASHODARA đi gặp các Thám tử về trình báo và chỉ đạo họ mọi việc thay Thái Tử. Công nương YASHODARA đành ngậm ngùi làm thay công việc của Thái Tử.

Công nương YASHODARA đến gặp các thám tử dặn dò một cách hết sức cẩn thận và chu đáo: “Mùa đông đã đến trời rất lạnh, các người phải chăm sóc thuộc hạ của mình chu đáo nhé. Đừng để cho ai được lạnh lẽo và thiếu thốn”.
Thám tử báo cáo tình hình hiện nay vua của các nước ra sức truy tìm Chúa công (Thái Tử) là ai để bày tỏ lòng biết ơn quý kính và để tôn Chúa công (Thái Tử) làm Chuyển luân vương. Thám tử lo ngại một lúc nào đó họ sẽ tìm ra Thái Tử.
Công nương YASHODARA nghe vậy ngậm ngùi phó thác cho ý trời. Sau khi nghe các Thám tử báo cáo về tình hình của RAJAGAHA (Vương
Xá Thành), Người lặng lẽ trở về phòng.
Giữa rừng giăng đầy tuyết, một toán người lạ mặt đang đi chậm rãi trong rừng. Bỗng một
toán khoảng sáu người xuất hiện đánh nhau với họ. Sau khi thu phục được họ, toáng sáu người dò hỏi về nguyên nhân vì sao toán người kia đi từ RAJAGAHA về đất nước SAKYA để làm gì.
Sau một hồi,
toáng người lạ mặt khai ra vì theo lệnh của Vua BIMBISARA (Bình Sa) vì ngưỡng mộ Chúa công trong bóng tối nên đã sai nhiều toán thám tử truy tìm xem vị Chúa công này là ai. Vua BIMBISARA chỉ muốn tôn vị Chúa công đó lên làm Chuyển luân vương cai trị các nước. Gần đây Vua BIMBISARA nghe tin là vị Chúa Công này đang ở đất nước SAKYA.
Nhóm thám tử sáu người giam toáng người này lại và vội vàng đến bẩm lại tình hình cho Chúa công (Thái Tử) nghe. Thái Tử trầm ngâm: “Vua BIMBISARA rất giỏi hoạt động thám tử, Ta đã hết sức bí mật mà Vua cũng tìm gần ra ta, Ta đâu cần làm chuyển luân vương, Ta chỉ mong tìm con đường giải thoát cho tất cả chúng sinh”.

Thái Tử ra lệnh cho Thám tử của mình thả bốn người thám tử của RAJAGAHA (Vương Xá) về, gieo thông tin lạc hướng cho họ đi tìm chỗ khác, không dò xét SAKYA của mình nữa.
Thái Tử lặng lẽ trở về phòng với vẻ mặt không vui.
Công nương YASHODARA (Da Du Đà La) nhận thấy được nên gặng hỏi.
“Chàng làm việc xong rồi hả, sao trông chàng buồn quá vậy?”
Thái Tử kể rõ sự tình cho công nương YASHODARA nghe:
“Bên mình bắt được một
toán Thám tử bốn người đã khai ra. Ta e sợ Vua BIMBISARA (Bình Sa) biết được sẽ làm ầm lên, kêu các nước kéo về đây tôn ta làm chuyển luân vương, thế là ta hết đường xuất gia làm sa môn”.

Nghĩ đến cảnh Thái Tử ôm bình bát đi xin ăn từng nhà khi làm Sa môn, công nương YASHODARA xót xa gục vào lòng Thái Tử khóc nức nở.
Thời gian thấm thoắ
t trôi qua, công nương YASHODARA đã mang thai được tám tháng. Hoa trong vườn đua nhau khoe sắc. Mọi người tung tăng vui đùa trong vườn hoa. Chỉ riêng Thái Tử ngồi trầm ngâm.

Tin tức đưa về, Vua BIMBISARA vừa sinh được con trai đặt tên là AJATTASATTHU (A XÀ THẾ), còn Thái Tử JETA (KỲ ĐÀ) con vua PASENADI (Ba Tư Nặc) ở SAVATHI (Xá Vệ) thì đã lên mười tuổi. Còn DEVADATTA (Đề Bà Đạt Đa) ở DEVADAHA cũng đã lấy vợ và sinh được con gái. Thời gian này, Thái Tử đã được hai mươi chín tuổi và NANDA (Nan Đà) cũng đã được mười một tuổi.
Trong vườn hoa, NANDA đột nhiên hỏi Thái Tử:
“Chừng nào hoàng huynh lên làm vua vậy?”
Thái Tử trả lời:
“NANDA à, huynh sẽ không làm vua đâu, huynh nhường cho đệ làm vua đấy, đệ phải học cách làm vua dần dần đi”.

Thái Tử đánh thức CHANNA dậy thắng ngựa cho người. CHANNA đang ngủ giật mình thức giấc bất giác hỏi lại Thái Tử, câu hỏi mà CHANNA thường xuyên hỏi:
“Bẩm Thái Tử, giờ này trời tối, nhân gian mịt mờ lắm, Thái Tử định đi đâu?”
Sau đó, Thái Tử và CHANNA ra khỏi cổng thành.
Trong một khu rừng vắng, năm thám tử đang đứng chờ thái từ để nhận lệnh của Thái Tử.
Thái Tử ra lệnh:
“Này tướng quân POTTHAKA, ngươi phải ngăn chặn cuộc họp mặt giữa các vua lại, không cho vua BIMBISARA (Bình Sa) gặp vua PASENADI (Ba Tư Nặc) cũng như không cho gặp mặt các vua khác. Các vua đang dự tính họp mặt nhau để tôn ta lên làm Chuyển Luân Vương, việc này không tốt”.
Tướng quân POTTHAKA đáp:
“Kính thưa chúa công vĩ đại, đây là ý nguyện của biết bao nhiêu người, ai cũng thiết tha tôn Chúa công lên làm Chuyển Luân Vương vì ân đức và tài năng của chúa công đã phủ trùm các nước suốt nhiều năm qua. Xin chúa công tùy thuận lòng người”.
Thải tử đáp lại:
“Người biết một mà không biết hai, có những điều còn cao cả hơn làm Chuyển Luân Vương, đem đến lợi ích cho muôn dân đời đời đời kiếp kiếp. Thôi các ngươi cứ vâng theo lời ta mà thi hành như thế. Đây là số tiền ta cho các ngươi để chi dùng”.
Chỉ dẫn xong mọi việc. Chúa công thúc ngựa quay về cung…

Trong sân tập võ, NANDA (Nan Đà) và SUNDARI nhờ Thái Tử dạy cho dạy cho vài thế võ. Thái Tử biểu diễn vài thế võ để NANDA và SUNDARI tập theo. Sau khi tập xong NANDA kể chuyện cho Thái Tử nghe về việc Đc Vua và Hoàng hậu sẽ nhường ngôi cho Thái Tử vào ngày rằm trăng tròn tháng hai sắp tới này đây.
Khi nghe tin, Thái Tử sững sờ nhìn NANDA không nói gì, lặng lẽ rời khỏi sân t
p võ.
Một ngày nọ, Thái Tử đang đứng trầm ngâm suy nghĩ thì có cung nữ đến báo công nương YASHODARA (Da Du Đà La) đang chuyển bụng sắp sinh.
Thái Tử tất tả vào cung. Bế con mình trên tay, nét mặt buồn khó hiểu.

Ngay lúc đó, Vua và Hoàng hậu, NANDA và SUNDARI hớn hở bước vào. Vua ra lệnh cho triều đình mở tiệc ăn mừng bảy ngày để mừng Con của Thái Tử ra đời. Hôm nay là ngày mồng một, đến ngày mùng bảy sẽ làm lễ đặt tên. Bảy ngày trôi qua, lễ đặt tên được diễn ra long trọng tại hoàng cung KALIVATTHU. Mọi người bàn tán xôn xao về việc đặt tên cho con Thái Tử.
Thái Tử đề nghị được đặt tên con mình là RAHULA (LA HẦU LA) có nghĩa là chiến thắng các lỗi lầm, cũng có nghĩa là thần mặt trăng.
Tiệc tàn, trời dần về khuya, Thái Tử bước vào phòng nhìn công nương YASHODARA và RAHULA đang ngủ say. Người mang theo 1 túi vải rồi ra đi về phía chuồng ngựa gọi CHANNA thắng con ngựa KANTARA cho Ngài đi xa.

Vẫn câu hỏi cũ của CHANNA làm ai nghe cũng chạnh lòng: “Giờ này trời tối, nhân gian rất mờ mịt, Thái Tử định đi đâu?”
Thái Tử đáp:
“Chính vì trời tối, vì nhân gian mờ mịt nên ta phải đi tìm ánh sáng cho mọi người”.

Ngay lúc đó, MARA (Ma Vương) hiện ra nói: “Này Thái Tử SIDDHATTHA (Tất Đạt Đa), chỉ còn bảy ngày nữa Ngài sẽ được tôn lên làm Vua của SAKYA và ba mươi ngày nữa Ngài sẽ được tôn lên làm chuyển luân vương, vua của các vị vua. Ngài đừng đi, hãy ở lại.
Thái Tử đáp:
“Ta biết, nhưng ta không màng người đừng cản ta”.
Thái Tử bịt mặt lại cùng CHANNA phi ngựa vượt ra khỏi thành trong màn đêm hướng về phía nam. Đi được khoảng khoảng xa, Thái Tử cởi bỏ khăn bịt mặt ra, Người phi như bay về phía trước, tất cả những cảnh vật như bị bỏ lại phía sau.
Trước mặt Thái Tử là dòng sông ANOMA.
CHANNA sốt ruột giục:
“Thái Tử à, trước mặt ta là sông AMONA, đã xa kinh thành lắm rồi, xin Thái Tử dừng lại và quay về”.
Thái Tử vẫn giục ngựa đi tiếp rồi dừng lại bên bờ sông ANOMA nước chảy cuồn cuộn. Thái Tử thúc ngựa nhảy xuống b
ăng qua sông.
Sau khi lên bờ, đến một gốc cây nơi bãi đất trống, Thái Tử xuống ngựa bỏ túi đồ xuống, bỏ vương miện xuống, xõa tóc ra và cầm dao lên cắt tóc. CHANNA bàng hoàng không nói nên lời, muốn ngăn Thái Tử lại nhưng không dám, chỉ dám nhìn từng lọn tóc của Thái Tử rơi xuống mà nước mắt rơi theo. Sau khi cắt tóc xong, Thái Tử cởi bỏ bộ đồ Vương giả của mình ra và tháo hết trang sức ra, rồi lấy tấm y cũ màu nâu sẫm ra mặc vào người.

Trước hình ảnh này, CHANNA khóc nức nở, ngựa KANTARA cũng khóc…
Thái Tử đưa cho CHANNA túi đồ và lệnh bài tối mật dặn CHANNA về đưa cho công nương.
CHANNA khóc nức nở, quỳ xuống lạy Thái Tử rồi dắt hai con ngựa băng qua sông quay về. Con ngựa KANTARA cứ ngoái lại nhìn Thái Tử, không muốn quay về.

Đợi cho CHANNA băng qua sông rồi, Thái Tử mới quay lưng đi tiếp về phía Nam. Bóng người oai vệ dần khuất sâu trong rừng.
Mặt trời đã lên, Sa môn GOTAMA (Cồ Đàm) đi ngang qua một xóm nhà. Có một người đàn ông lấy phần cơm của mình sớt vào bình bát cho Người. Người đi được một đoạn lại có một người phụ nữ cúng dường thức ăn cho Người.
Lúc này, mặt trời đã lên gần đến đỉnh đầu, CHANNA cũng đã về tới hoàng cung KAPILAVATTHU (Ca Tỳ La Vệ). CHANNA vừa khóc vừa kể lại sự tình… Công nương YASHODARA (Da Du Đà La) ôm RAHULA vào lòng khóc rấm rứ
t, các cung nữ cũng khóc nức nở.. Hoàng cung chìm trong sầu thảm, mọi người đều buồn bã. Ngoài phố thì mọi người bàn tán xôn xao…
Trong hoàng cung, công nương YASHODARA bí mật gặp các thám tử ra lệnh:
“Các ngươi cũng biết rồi đấy, Thái Tử của chúng ta tức là Chúa công của các ngươi đã xuất gia làm Sa môn. Các ngươi phải lập 1 đội mười người luân phiên nhau theo dõi bảo vệ Thái tử, Thái Tử đi đến đâu, sống như thế nào, đều phải báo lại cho ta biết. Các người không cho ai quấy phá đời sống tu hành của Thái Tử. Và điều quan trọng nhất là giữ bí mật suốt đời việc Chúa công chính là Thái Tử SIDDHATTHA (Tất Đạt Đa), nếu không sẽ nguy hiểm cho Thái Tử.
Các Thám tử đồng ý nhận lệnh.
Hàng ngày, Sa môn GOTAMA đi vào làng khất thực, người dân quý kính và cúng dường thức ăn cho Người. Người thường xuyên tìm một chỗ thanh vắng để ngồi thiền, khi khát thì người uống nước suối.
Những hoạt động hàng ngày của Người đều được Thám tử về bẩm báo đầy đủ cho công nương YASHODARA biết. Công nương YASHODARA không kiềm lòng được, khóc nức nở.

Thám tử báo cáo thêm: “Thầy tư tế AGGIDATTA của nước KOSALA cũng đã xuất gia được 7 ngày trước. ông làm tư tế suốt từ thời vua MAHA KOSALA qua đến thời PASENADI (Ba Tư Nặc). Nay ông về biên giới của 3 nước MAGADHA (Ma Kiệt Đà), KURUS và ANGAS lập trú xứ”.

Sa môn GOTAMA tiếp tục đi về phía Nam, người đi về bìa rừng để tránh khu dân cư. Chợt 1 toáng cướp xông ra chặn đường Người. Họ thấy rằng Sa môn này dung mạo quá đẹp, có lẽ là người giả dạng Sa môn để làm việc gì lén lút hoặc là người xuất thân từ dòng dõi sau sang.
Sa môn GOTAMA cất tiếng:
“Ta chẳng có tài sản, vật dụng, tiền bạc gì cả, các ngươi cho ta đi qua”.
Tên cướp đáp lại:
“Hơn mười ngày qua ta chưa cướp được món gì, đang rất đói. Ngươi nên bỏ vàng bạc trong túi đó ra, hoặc kêu người thân đưa tiền đến cho ta, thì ta sẽ cho ngươi đi”.
Sa môn GOTAMA không trả lời, lặng lẽ ôm bình bát đi thẳng tới. Tên cướp vung gươm lên tấn công, Người chỉ lách qua, lách lại là thoát khỏi vòng vây. Còn 4 tên cướp thì nằm ngã ngửa ra mặt đất, gươm của chúng thì văng đâu mất tiêu.

Sa môn GOTAMA lại tiếp tục đi về nước MAGADHA. Khi đến một bờ sông, nhiều người dân cũng đang đợi bè qua sông. Một chiếc bè lớn đến để đưa mọi người qua sông. Nhưng riêng Sa môn GOTAMA thì chủ bè lại không lấy tiền. Khi bè ra đến giữa sông, bỗng một người rút gươm ra kề vào cổ hai chống bè để cướp tài sản. Bỗng chiếc bè bắt đầu bị cuốn vào xoáy nước và quay vòng bất định.

Mọi người đều hốt hoảng,… Bỗng có hai hiệp khách bước tới, đoạt gươm và hất tên cướp xuống sông. Sa môn GOTAMA nhanh như cắt phóng xuống sông chụp tên cướp lại, lôi vào gần chiếc bè rồi ném gọn tên cướp lên bè. Một hiệp khách lấy dây trói tên cướp lại.
Sa môn GOTAMA ngăn lại:
“Tên này không phải cướp chuyên nghiệp, vì ng quẫn nên làm liều. Ta nên giáo dục cảm hóa rồi lát nữa lên bờ bên kia thả cho hắn đi đi”.
Hai hiệp khách cúi đầu thật sát, rơm rớm nước mắt vâng theo trước sự ngỡ ngàng của nhiều người xung quanh.
Tàu cập bến, Sa môn GOTAMA răn nhắc tên cướp rồi thả cho hắn đi, quay sang nói với hai hiệp khách:
“Các ngươi không cần theo ta nữa, hãy lo việc của triều đình là tốt lắm rồi”.
Hai hiệp khách nghẹn ngào không nói nên lời…
Sa môn GOTAMA tiếp tục lên đường hướng về thành Vương
Xá.

Mặt trời đã xuống núi, cuối cùng thì cổng thành RAJAGAHA (Vương Xá) hiện ra. Sa môn GOTAMA quay người đi ngược lại về phía chân núi phía Tây, tìm một rặng cây nằm nghỉ. Người lót cỏ khô trên đất, rồi trải một tấm vải dày màu nâu nên nằm ngủ… Bình minh lên, Người ngồi thiền lặng lẽ dưới gốc cây. Sau đó, Người đi vào thành để khất thực.
Sự xuất hiện của Người làm cả kinh thành xôn xao. Mọi người đổ xô lại cúng thức ăn vào bát của Người… Sau khi khất thực xong, Người ra cổng thành đến gốc cây ven rừng ngồi ăn…
Trong hoàng cung RAJAGAHA, vua BIMBISARA (Bình Sa) họp các triều thần lại. Một viên quan trong triều bẩm báo:
“Tâu Đại vương, sáng hôm qua trong thành xuất hiện một Sa môn lạ mặt, dung mạo cực kỳ đẹp đẽ, khiến cho mọi người xôn xao ngưỡng mộ. Chúng thần theo dõi thấy vị Sa môn ấy ban đêm ngủ trong rừng, dưới tàng cây gần chân núi phía tây và chưa biết nguồn gốc của vị sa môn này”.

Vua BIMBISARA tiếp tục ra lệnh: “Các ngươi tiếp tục theo dõi, rồi giả vờ làm thí chủ cúng dường, lân la hỏi thăm nguồn gốc vị Sa môn đấy nhé. Này đại thần PATU, ta nghe tin Thái Tử SIDDHATTHA (Tất Đạt Đa) xuất gia vào khoảng tháng trước. Chẳng biết có phải là vị Sa môn này không. Người thu thập thông tin rồi báo lại cho ta biết. Nếu đúng là Thái Tử SIDDHATTHA của KAPILAVATTHU (Ca Tỳ La Vệ) thì người này cao lớn, da trắng, dung mạo xinh đẹp, tóc có nhiều xoáy khắp đầu, giữa hai chặng mày có xoắn lông màu bạch kim, rất khác lạ so với người thường. Ta nghi ngờ chính Thái Tử SIDDHATTHA là vị Chúa công trong bóng tối mà bao nhiêu năm qua đã bí mật điều khiển các quốc gia khiến cho các quốc gia sống hòa hiếu với nhau, xứ nào cũng ấm no thịnh vượng. Khoảng một tháng nay, kể từ lúc Thái Tử SIDDHATTHA xuất gia, thì sự chi phối của thế lực bí mật đó kém hẳn. Nếu thật sự vị Sa môn kia chính là Thái Tử SIDDHATTHA của KAPILAVATTHA thì ta sẽ đích thân diện kiến người”.

Bình minh lên, Sa môn GOTAMA (Cồ Đàm) đang từ từ trên đồi đi xuống, chợt có ba người đàn ông đến đảnh lễ Người. Ba Người lặng lẽ cúng dường thức ăn cho Sa môn GOTAMA và ra về.
Ba người về bẩm báo lại với vua BIMBISARA (Bình Sa):
“Thưa Đại vương, hình dáng của vị Sa môn đó đúng như Đại vương diễn tả. Da trắng, cao lớn, uy nghi đẹp đẽ, tóc có nhiều xoắn ở trên đầu, giữa hai chặng mày có xoắn lông màu bạch kim rất kỳ lạ”.
Khi nghe xong vua BIMBISARA sai quần thần chuẩn bị tùy tùng, vải vóc và thực phẩm để cúng dường Người.
Mặt trời lên, đoàn người từ từ tiến về ngọn đồi phía tây ngoài kinh thành. Khi đến chân đồi, vua cởi mão, thanh gươm đeo trên người và gi
ày giao lại cho đại thần PATU rồi đi lên đồi đảnh lễ Sa môn GOTAMA.

“Bạch tôn giả, con là vua của nước MAGADHA (Ma Kiệt Đà) này, nghe tin Tôn giả về RAJAGAHA (Vương Xá) cư ngụ nên xin được đến ra mắt vấn an Tôn giả”.
Sa môn GOTAMA đáp:
“Thưa Đại vương, tôi chỉ là một Sa môn xuất gia, không nhà như nhiều Sa môn quanh RAJAGAHA này, chẳng có gì đáng để Đại vương phải cất công thân hành đến đây vấn an. Tấm thịnh tình của Đại vương khiến tôi cảm kích. Mong Đại vương được nhiều phước lành”. Sa môn GOTAMA
Vua BIMBISARA bỗng òa khóc:
“Chính là Người. Phải, chính là Người. Chính Người là vị Chúa công trong bóng tối mà từ lâu con ngưỡng mộ, muốn họp vua các nước để tôn Người lên làm minh chủ Chuyển Luân Vương. Nhưng Người đã bỏ tất cả để xuất gia làm một Sa môn không nhà”.

Sa môn GOTAMA (Cồ Đàm) đáp: “Nếu Đại vương đã biết được sự thật này thì tôi cũng xin Đại vương hãy hứa một điều là mãi mãi đừng tiết lộ bí mật này với ai khác. Hãy cho tôi hoàn thành chí nguyện của mình, đi tìm sự giác ngộ tuyệt đối cứu độ chúng sinh”.
Vua BIMBISARA (Bình Sa) thổn thức:
“Con cúi xin Người hãy ở lại với chúng con. Con xin dâng đất nước MAGADHA (Ma Kiệt Đà) này cho người trị vì”.
Nhưng Sa môn GOTAMA không đồng ý.
Vua BIMBISARA nói tiếp:
“Con xin hứa với Người sẽ mãi mãi không tiết lộ bí mật về thân thế của Người, và con xin Người hứa với con một điều. Nếu ngày nào đó Người tìm được sự giác ngộ đó, Hãy quay lại độ cho con”.
Sa môn GOTAMA đồng ý với thỉnh cầu của vua BIMBISARA.


TẬP 9: KHỔ HẠNH

Thái Tử Siddhattha (Tất Đạt Đa) trên đường về phía Nam để cầu đạo tìm ánh sáng để giải thoát. Dưới sự chỉ đường của các tu sĩ thành Rajagaha, sa môn Gotama (Cồ Đàm) tiếp tục đi về phía Tây Nam để tìm gặp đạo sư Alara Kalama – đạo sĩ đã chứng được đạo quả cao siêu và có thần thông. Trên đường đi, người gặp một vị tu sĩ khổ hạnh và hỏi mục đích tu luyện của vị hiền giả này. Vị hiền giả kia trả lời rằng ngài đang tu tập khổ hạnh qua sức định trong nội tâm, rồi dùng sức định nội tâm mà khống chế cơ thể theo những những hình thức khó khăn nhất, khi cơ thể được khống chế hoàn toàn thì ta sẽ được giải thoát, làm chủ được thân này tức là phá được luân hồi ràng buộc, tức là giải thoát, vì sao? Vì thân này là đầu mối của luân hồi ràng buộc.
Sau khi nghe được câu trả lời của vị tu sĩ, Thái Tử tiếp tục lên đường.
Trong thời điểm đó, tại kinh thành, Vua cha của Thái Tử rất lo lắng cho ngài nên đã phái bà la môn Kondanna (tôn giả A La Hán – Kiều Trần Như) cùng với bốn bà la môn khác là Vappa, Mahanama, Bhadiya, Asaji để theo bảo vệ, chăm sóc sa môn Gotama và cùng tu luyện. Cũng trong thời điểm đó, nương nương Yashodara (Da Du Đà La) – vợ của Thái Tử cũng phái người âm thầm theo dõi và chỉ đường cho năm anh em Kiều Trần Như đến gặp sa môn Gotama. Trong cung điện, nương nương ăn mặc rất giản dị, sống một đời sống khổ hạnh như Sa môn Gotama đang sống trên con đường đi tìm sự giải thoát.

Sau khi tìm đến được tu viện của tôn sư Alara Kalama. Tôn sư Alara Kalama là người đã chứng được đạo cao siêu, biết được nhiều kiếp quá khứ, vị lai, người có thể đi bộ chậm rãi trên nước như đi trên mặt đất. Tôn sư Alara Kalama đã chứng được mức định Vô Sở Hữu XĐịnh, nội tâm vắng lặng hoàn toàn, trí tuệ khai mở được nhiều điều mà người thường không thể biết được, có thể điều khiển được thân thể như ý mình muốn. Tôn sư mời Sa môn Gotama ở lại và sẽ hướng dẫn pháp và luật để chứng đạt. Tôn sư sắp xếp chỗ ở và người để chăm sóc cho Sa môn Gotama về thức ăn và nước uống. Sáng hôm sau, anh em Kiều Trần Như cũng vừa đến tu viện và được sắp xếp chỗ ở gần sa môn Gotama. Sau khi thọ thực, mọi người ngồi khắp nơi để thiền định. Tôn sư Alrara Kalama nói với sa môn Gotama về việc muốn chứng đạt vô sở hữu định xứ thì cần phải dứt bặt suy nghĩ, trải rộng đến vô cùng trong hư không, cứ như thế đến khi nào ta thấy rõ ràng khắp đất trời này chẳng có gì tồn tại, vắng lặng vô cùng. Chưa đầy một tuần lễ, sa môn Gotama đã chứng được đạt vô sở hữu định xứ và đến trình bày trạng thái của mình với Tôn sư. Tôn sư ân cần thỉnh mời Sa môn Gotama ở lại cùng Tôn sư để lãnh đạo toàn thể đạo sĩ tu viện.
Thế nhưng, Sa môn Gotama vẫn chưa tìm được sự giải thoát và loại trừ bản ngã sau khi đạt trạng thái
Vô Sở Hữu Xứ Định. Thế nên, Ngài lại tiếp tục lên đường để đi tìm sự giải thoát thật sự cùng với anh em Kiều Trần Như sau khi đảnh lễ Tôn sư Alara Kalama.

Trên đường đi, Sa môn Gotama cùng anh em Kiều Trần Như được một vị gia chủ giúp đỡ và chỉ đường đến với đạo sư Uddaka Ramaputta. Sau khi, đến tu viện của sư Uddaka Ramaputta, Sa môn Gotama đảnh lễ với Tôn sư và xin phép được ở lại để tu là học trong pháp và luật cùng với năm anh Kiều Trần Như.

Tại đây, Sa môn Gotama tu và học để đạt được trạng thái Phi Tưởng Phi Phi Tưởng XĐịnh. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định là trạng thái tâm không còn là tâm, vật không còn là vật, ai chứng đạt được trạng thái này có thể bay liệng giữa trời hư không như chiêm trời tự tại Tôn sư sắp xếp chỗ nghỉ ngơi Sa môn Gotama gần bên cạnh người. Tôn sư nhắc nhở Sa môn Gotama về an trú trong Vô Sở Hữu XĐịnh, đừng thọ nhận sự an lạc của nó thì mới có thể vượt lên để chứng nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định được. Chỉ trong một vài ngày sau khi thiền định, Sa môn Gotama đã chứng đạt nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ ĐịnhTôn Sư đã mất bốn mươi năm mới có thể đạt được.

Tôn sư mời Sa môn Gotama ở lại lãnh đạo giáo hóa cho bảy trăm đạo sĩ thay tôn sư. Sa môn Gotama đã hỏi tôn sư về trạng thái Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định này có thể loại bỏ hết được bản ngã hay không, có thể giải thoát hoàn toàn được không, nếu đã hết bản ngã thì ai biết mình chứng đạt. Tôn sư đã trả lời rằng ngài không thể trả lời được và Sa môn Gotama phải tự tìm được câu trả lời này cho chính mình và chúng sinh. Sau đó, Sa môn Gotama đã từ giã tôn sư để tiếp tục lên đường để tìm câu trả lời cùng anh em Kiều Trần Như.

Ngài cùng anh em Kiều Trần Như đi về phía Tây để tìm một nơi có thể tu khổ hạnh.
Ngài đi về phía khu vực thuộc Uruvela, sông Naranjana để tu khổ hạnh. Tại đây, thôn làng đã giúp đỡ Ngài và anh em Kiều Trần Như xây dựng nơi trú ngụ và lương thực. Cùng thời điểm đó, nương nương Yashodara phái thị nữ Sujatha đến chỗ của Sa môn Gotama đóng giả làm người dân thường để hỗ trợ cho Ngài về lương thực và thuốc men.

Sa môn Gotama bắt đầu quá trình tu khổ hạnh của mình dưới những cơn mưa sa, những trận gió lùa với nhng tư thế hết sức khốc liệt, mỗi đợt tu luyện của Ngài thường kéo vài từ năm ngày đến cả tháng. Sau năm năm tu luyện khổ hạnh, Sa môn Gotama vẫn chưa thể tìm ra được câu trả lời về sự giải thoát, Ngài đã tìm đến tu luyện khổ hạnh bằng cách nhịn ăn, sau đó là nhịn thở. Thế nhưng, trong một thời gian ngắn, người Sa môn Gotama gầy rạc như bộ xương khô, và không thể tự mình đứng lên được.

“Có ai đó đang nằm kìa!” một đứa bé chăn bò hét lên khi thấy một vị Sa môn gầy rạc như bộ xương đang nằm bất động.

“Vị Sa môn này đã chết”.

“Không, Sa môn này chưa chết nhưng cũng gần chết…”

Trong khu rừng có tiếng cãi nhau. Sujatha đang nói chuyện với năm anh em nhà Kondanna rất gay gắt trong rừng. Cô liều mình chạy vô gặp Sa môn Gotama để khuyên Người ăn uống trở lại liền bị năm anh em nhà Kondanna kéo lại…


Tập 10: THÀNH ĐẠO

Thân thể Sa Môn GOTAMA (Cồ Đàm) đã khô héo sau thời gian dài khổ hạnh. Lúc này, Sujatha vội vàng xách giỏ chạy đến, lấy bình cháo sữa rót vào bát và dâng lên cho Sa Môn GOTAMA. Tay “Người” run run đỡ lấy bát cháo sữa uống chầm chậm từng ngụm một. Năm anh em Kiều Trần Như đứng hình một cách ngỡ ngàng không nói nên lời. Sau khi uống hết “Người” ngả lưng vào gốc cây nhắm mắt nghỉ, Sujatha bảo người dọn dẹp lại căn chòi rồi thỉnh “Ngài” vô nghỉ. Sa Môn GOTAMA từ từ đứng dậy, lết từng bước khó nhọc đi vào căn lều của mình nằm nghỉ. Lúc đó, năm anh em Kiều Trần Như bỏ đi vào trong lều, trên gương mặt tỏ vẻ thất vọng, bất mãn.
Rồi cứ bình minh lên – Sujatha lại mang thức ăn đến cúng dường. Không bao lâu sau “Người” đã bắt đầu khỏe ra, cơ thể phục hồi lại dần dần. “Người” đi dạo dưới tán cây, năm anh em Kiều Trần Như thấy “Người” thì lảng tránh, không nói chuyện với “Người”. Sujatha lại mang thức ăn đến, sau khi ăn xong Người ra bờ sông cạo râu đi và cắt tóc ngắn lại. Từng ngày nhìn thấy Sa Môn càng hồi phục thì năm anh em Kiều Trần Như càng không chịu nổi vì luôn tôn thờ sự khổ hạnh vĩ đại của Sa Môn mà lầm tưởng rằng nay “Người” đã hưởng thụ và đắm chìm trong dục lạc thế gian. Nên sau đó họ quyết tâm bỏ đi mặc cho ban đầu vì theo lệnh vua đi theo hầu hạ, và họ cũng biết chắc rằng vua Tịnh Phạn truyền ngôi cho Nanda, vì là vua mới cần lấy lòng dân nên sẽ không gây khó dễ cho gia đình của họ nên nhân lúc Sa Môn nghỉ ở trong lều, năm anh em lặng lẽ bỏ đi. Khi thức dậy, “Người” nhìn năm căn lều trống không rồi quay bước lặng lẽ đi dạo dưới tán cây.

Sujatha mang thức ăn và cúng dường cho Ngài xấp vải. Sa Môn nói rằng: “Ta sẽ xuống sông tắm rồi thay tấm y mới này. Bây giờ sức khỏe ta đã phục hôi nhiều nên ta sẽ bước vào một giai đoạn tu tập khác. Này Sujatha, lúc đó ta sẽ tìm nơi khả ái để ngồi thiền. Nếu cô không tìm được ta thì đừng lo lắng. Khi nào xong ta sẽ báo cho cô biết”.
Đợi Sujatha và người hầu ra khỏi khu rừng. Sa Môn GOTAMA cầm bát đi về phía bờ sông Neranjana tắm gội và rửa bát. Chợt Người cầm bình bát lên và nói: “Nếu ta đắc thành đạo quả Giác Ngộ lần ngồi thiền này thì nguyện cho chiếc bát sẽ trôi ngược dòng sông”. Rồi Ngài thả chiếc bát bồng bềnh mặt nước, lạ kỳ thay chiếc bát rẽ ngược dòng trôi lên. Sa Môn GOTAMA lên bờ đắp y mới rồi ôm bát đi thật sâu vào rừng và đứng lại trước cây bồ đề to lớn, cành lá xum xuê. Giống như một mái nhà mà ánh nắng và nước mưa không thể nào lọt vô được. Người đặt chiếc bát dưới gốc cây và đi tìm loại lá cỏ có mùi thơm tinh dầu để ngăn côn trùng đến gần. Sau đó, Người trải lá dưới gốc cây ở giữa hai rẽ lớn thành một tòa ngồi. Rồi Sa Môn ngồi trên tòa cỏ, tấm y phủ kín người. Người đưa bàn tay lên và nói với chính mình: “Nếu không thành được Chính Đẳng Chính Giác, dù thịt nát xương tan ta quyết không rời khỏi chỗ này”.
Rồi Ngài đặt tay xuống, ổn định cơ thể theo tư thế kiết già và bắt đầu nhiếp tâm vào định. Ngài cảm giác toàn thân, biết rõ hơi thở ra hơi thở vào, chẳng mấy chốc Ngài nhập vào trạng thái sơ thiền mà năm mười hai tuổi Ngài đã chứng nhập. Những cơn gió thổi từng cơn, bòng Người bất động dưới tàng cây bồ đề. Mặt trời lên, những con thú bay nhảy tung tăng, bóng người vẫn ngồi đó…

Trong khi đó, người dân khu làng đến gần những căn lều thì không còn thấy ai cả. Thôn trưởng hỏi ra mới hay tình hình, mọi người cũng cùng nhau đi tìm nhưng không thấy. Cũng vì nghĩ Người đi vào sâu ngồi thiền cho không ai quấy rầy nên mọi người cũng giải tán đi về, không tìm nữa.
Đêm xuống, lực lượng thám tử vì đã hơn bảy ngày mà vẫn chưa tìm được tung tích gì từ Sa Môn GOTAMA để báo về Kapilavathu. Sáng hôm sau, họ tiếp tục cải trang làm người dân và đi tìm tiếp. Khi ánh mặt trời ngả chiều, chợt có khói bốc lên từ một góc rừng. Mọi người vội vàng chạy về hướng đó thì thấy dáng Người ngồi bất động dưới cội cây bồ đề, năm người liền quỳ xuống lạy Ngài.
Lực lượng thám tử được lệnh bố trí âm thầm bảo vệ xung quanh khu vực Sa Môn GOTAMA để ngăn chặn những người dân lai vãng đến gần.

Trong khu rừng, Ngài tiếp tục nhập vào mức thiền thứ hai: Dứt bặt mọi ý nghĩ, toàn thân tuôn trào sinh lực và có hào quang tỏa ra xung quanh.

Rồi tiếp đến mức thiền thứ ba: Sinh lực siêu nhiên phủ trùm cả khu rừng, gương mặt Ngài sáng tỏ lạ kỳ. Các thám tử kể lại, khi lại gần Thái Tử trong vòng một trăm thước thì cảm thấy khỏe khoắn hẳn lên, như thần lực của người lan tỏa khắp cả vùng. Rồi màn đêm buông xuống, các thám tử chợt hôn mê bất tỉnh.

Tiếng đàn réo rắt vang lên hư không rồi từ từ đến gần cây bồ đề, ba người con gái đẹp tuyệt trần từ đâu bay xuống hát múa lả lơi. Trong lớp sương mờ ảo, Ngài mở mắt nhìn mọi điều rất rõ. Cảnh tượng không phải của thế giới này, mà của thế giới siêu hình hiện ra. Các cô đến sát Ngài, thân thể tỏa ra hương thơm kỳ diệu, họ uốn éo gợi cảm rồi buông lời quyến rũ. Ba cô vẫn hát múa, ngồi nỉ non, khóc than tha thiết. Sa Môn GOTAMA vẫn ngồi bất động, mở mắt và không nói gì. Một hồi lâu các cô buồn bã bỏ đi, Sa Môn GOTAMA nhắm mắt ngồi như cũ.

Chợt có tiếng động ầm ầm kéo tới, trên trời mây đen vần vũ. Lần này, trùng trùng những hình hài yêu ma xuất hiện. Tên nào cũng dữ tợn gớm ghiếc, tay cầm vũ khí đủ loại. Bọn chúng bao vây chặt gốc cây, la hét gào thét dữ dội, tiếng kêu la của chúng dường như vang tận cả trời đất. Số lượng của chúng có vẻ chật kín cả mặt đất, nhiều như cây trong rừng. Tất cả đều kinh kiếp, ồn náo, vang động. Bọn quỷ cứ la hét, nhảy múa đánh trống ầm trời, chúng dùng lời khiêu khích Sa Môn GOTAMA, rồi dùng tên bắn. Hàng trăm nghìn mũi tên lao vào Sa Môn. Nhưng kỳ lạ thay, tất cả mũi tên bay đến chưa kịp chạm vào thân Ngài đã lập tức biến thành những bông hoa rơi lả tả chung quanh. Bọn chúng tiếp tục chạy cuồn cuộn chung quanh gốc cây, la hét ầm ĩ, sấm chớp vang dội. Tên quỷ chúa ra lệnh, mười tên ma quân cầm gương nhảy vào chém xả vào người Sa Môn. Nhưng lạ thay, những thanh kiếm đó vừa chạm đến Ngài bỗng hóa thành sương khói, đi lướt qua người Ngài vô hại. Tên quỷ chúa tức giận cầm hai quả chùy đập thẳng vào người Sa Môn GOTAMA. Nhưng lạ thay, vừa đến gần Ngài hai quả chùy bỗng tan biến thành hai vầng sáng mờ ảo, rơi vào hư vô. La hét một lúc bọn chúng kéo đi hết, trời đất trở lại yên lặng, GOTAMA nhắm mắt lại nhập thiền tiếp.

Chợt ánh sáng chói lòa, một người cao to uy nghi hiện ra tự xưng là chúa tể của vạn loài, có thể điều khiển tất cả mọi người, bất cứ ai sống trong ngũ dục đều là quyến thuộc của hắn, đều được hắn bao bọc, chở che và sai khiến. Rồi hắn hứa sẽ cho Ngài tất cả quyền lực thế gian này.

“Này Mara (Ma Vương), tất cả chìm đắm trong ngũ dục đều chịu ngươi sai khiến, nhưng với kẻ không còn mong muốn điều gì, không còn sợ hãi điều gì thì làm sao ngươi chi phối được”.
“Trên đời này mấy người thoát khỏi ngũ dục. Hầu hết, tất cả đều còn chìm trong ngũ dục nên đều phải bị ta chi phối. Có những kẻ muốn tu hành thoát khỏi ngũ dục, thoát khỏi sợ hãi. Nhưng chỉ cần ta cho mời gọi ngũ dục, gây ra kinh sợ là bọn chúng rơi rụng liền”.
“Này
Mara, tại sao ngươi ngăn cản mọi người tu hành muốn thoát khỏi ngũ dục thế gian”.
“Này GOTAMA, ta cảm thấy khó chịu khi có ai đó muốn thoát khỏi tay ta. Ta cảm thấy khó chịu khi có ai đó muốn tranh giành chúng sinh với ta. Từ vô số kiếp, ta đã làm nhiều công đức, phước ta vô tận và ta không thích ai hơn ta, ai giỏi hơn ta, ai tốt hơn ta, ai được người khác yêu mến hơn ta đều làm cho ta khó chịu. Ngươi cũng vậy. Này GOTAMA, ngươi được người và chư thiên yêu mến, ngươi lại tìm cách thoát khỏi ngũ dục của ta. Sau này, ngươi sẽ giáo hóa chúng sanh thoát khỏi lưới quyền lực của ta, điều này làm ta khó chịu lắm nên ta sẽ phá ngươi đến cùng. Chỉ khi nào, ngươi chịu theo ta, ta sẽ cho ngươi tất cả quang vinh của cõi người và cõi trời, xứng đáng với công đức và tài năng của ngươi”.
“Này
Mara, ngươi đã từng biết làm nhiều việc thiện, chỉ vì ngươi có tâm đố kỵ quá lớn mà trở thành Ma vương, thật đáng tiếc”.
“Này GOTAMA, ta chỉ đơn giản là không thích ai hơn mình, ta muốn quyền lực của ta phủ trùm lên thân phận của mọi người, ta cảm thấy vui vì ta chi phối được cuộc sống của vô số chúng sinh”.
“Này Mara, tuy phước của ngươi rất lớn nhưng không vô hạn, ngày nào cũng sẽ hết. Ngươi tìm khoái cảm trong quyền lực chi phối chúng sinh, ngươi làm điều bất thiện nên phước sẽ hết và lúc đó ngươi nghĩ ngươi sẽ đi đâu”.
“Này GOTAMA, con cái ta đông vô kể, chúng sẽ nối tiếp ta cai trị muôn loài và giữ chúng sinh trong lưới quyền lực của ta, ngươi sẽ chịu được bao lâu nữa trước sức mạnh của ta, vì ta sẽ phá ngươi cho tới cùng”.

“Ta cũng làm vô số công đức từ vô lượng kiếp và những công đức này sẽ bảo vệ ta”.
“Ai làm chứng cho ngươi”.
“Này Mara, đất làm chứng cho ta. Khắp cõi đất này, chẳng có nơi nào mà không phải chỗ ta đã làm lên các công đức đối với chúng sinh”.
Sa Môn GOTAMA (Cồ Đàm) vừa nói dứt lời, một vị thần từ dưới đất hiện lên:
“Này Mara, ta là thần đất. Ta làm chứng cho lời của tôn giả GOTAMA. Bậc cao sư đến từ Sakya, đã làm vô số công đức từ vô lượng kiếp và các công đức này sẽ bảo vệ cho Ngài thoát khỏi sự phá hại của ngươi”.
Vị thần đất vừa nói xong, Mara gầm lên một tiếng, trời đất như rung chuyển rồi biến mất. Thần đất cúi lạy Ngài rồi biến mất. Khu rừng trở lại yên tĩnh, Sa Môn GOTAMA nhập thiền trở lại.
Trời gần sáng, bốn thám tử mới tỉnh dậy, ngơ ngác nhìn cảnh khu rừng trơ trụi xơ xác, lá rụng đầy, cây cối nghiêng ngả gãy đổ.
Dưới gốc cây Bồ Đề, lá vẫn xanh tươi, Ngài vẫn ngồi bình an nhập trong thiền định. Bốn người quay trở về làng với dáng vẻ mệt nhọc.

Sa Môn GOTAMA (Cồ Đàm) bắt đầu nhập vào mức thiền thứ , toàn thân ngập tràn ánh sáng. Rồi Ngài nhớ lại quá khứ của mình, bắt đầu từ kiếp này. Từ thuở bé thơ, lui dần đến khi vừa ra khỏi bụng mẹ, lui dần đến khi vào thai mẹ. Ngài nhớ lại dần từng kiếp Ngài đã mang tên họ như thế nào, có cha mẹ như thế, làm những hạnh nghiệp, tu hành ra sao. Có những kiếp Ngài làm vua, cũng có những kiếp Ngài làm thầy giáo dạy học, làm thợ thuyền, làm quan tướng, làm đạo sĩ. Ngài đã từng gieo trồng căn lành từ những Đức Phật quá khứ, đã từng Chư Phật thọ ký. Ngài nhớ dần đến vô lượng kiếp và đến đầu mối sinh tử luân hồi ban đầu. Ngay từ đó, Ngài thành tựu Túc Mạng Minh.

Ngài lại hướng tâm quan sát chúng sinh và thấy rõ chúng sinh trôi lăn trong luân hồi sinh tử không bao giờ dứt. Mỗi chúng sinh theo nghiệp của mình mà đi vào các cõi. Ai làm các nghiệp lành, giữ giới hạnh, từ bi giúp đỡ, sẽ sinh vào nơi hạnh phúc như cõi trời hoặc cõi người sang trọng. Ai làm các nghiệp xấu như giết hại, trộm cắp, tà dâm, ác ngữ… Thì sinh vào nơi đau khổ như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Ngài cảm nhận được tất cả duyên nghiệp của chúng sinh, cả trong ý nghĩ thầm kín nhất. Rõ như xem trái xoài trong lòng bàn tay, rõ như cả vũ trụ chỉ là một giọt nước. Thiên nhãn của Ngài thấy rõ hết, biết rõ hết sự luân chuyển của chúng sinh theo nghiệp trùm hết cả pháp giới vũ trụ mười phương bao la. Ngay lúc đó, Người chứng được Thiên Nhãn Minh.

Tiếp theo, Ngài thấy bản chất của thế gian này là đau khổ. Nỗi đau của chúng sinh ít hay nhiều tùy theo cõi giới, tùy theo duyên nghiệp nhưng tất cả đều là đau khổ. Ngay cả các cõi trời vô sắc thanh tịnh như Niết Bàn cũng có giới hạn phải thoái đọa. Còn nghiệp thiện ác chập chùng của chúng sinh lại càng khiến chúng sinh nổi trôi, lăn lộn. Chúng sinh càng tìm vui lại càng chìm đắm trong đau khổ. Chúng sinh càng tránh khổ lại càng vướng trong khổ đau. Bản chất của cuộc đời thật sự là đau khổ.

Ngài thấy rõ nguyên nhân của đau khổ là do vô minh, vô minh tạo thành chấp ngã, chấp ngã tạo nên vô số ham muốn buộc ràng. Chúng sinh vì ham muốn, vì ái dục nên đã tạo nên ràng buộc, ác nghiệp, đau khổ cho chính mình. Ngài thấy rõ Niết Bàn là trạng thái tịch diệt hết khổ đau, không còn luân hồi tái sinh. Nơi niết bàn này, Chư Phật chỉ là một, ba đời mười phương Chư Phật chỉ là một. Vũ trụ bao la cũng không khác nào một hạt bụi, vô lượng kiếp cũng chẳng khác nào một chớp mắt. Nếu nói là sáng thì sáng hơn ngàn ánh mặt trời. Nếu nói là tịch lặng thì tịch lặng hơn cả hư vô. Trạng thái Niết bàn không còn vô minh chấp ngã, nhưng không phải ngu ngơ như cây như đá mà là sự sáng suốt tột cùng. Nơi trạng thái Niết Bàn này không nói là từ bi mà là t bi vô hạn, không nói là trí tuệ mà là trí tuệ vô cùng. Vì Niết Bàn này thu nhiếp tất cả chúng sinh vạn loại, nơi trạng thái Niết Bàn này thật sự không còn cái gì có thể cao hơn được nữa, tuyệt đối hơn được nữa.

Ngài cũng thấy rõ muốn chứng được Niết Bàn này, chúng sinh phải tu tập theo con đường Bát Chánh Đạo. Đó là lộ trình tất yếu sâu xa, càng thực hành càng thấy vi diệu bao la, càng có trí tuệ, càng hiểu đến vô tận. Ngay khi thấu suốt được chân lý Tứ Diệu Đế này, Ngài chứng được Lậu Tận Minh, viên mãn đắc thành Phật Quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Ngay lúc đó, sao mai mọc lên góc trời phía Đông, mặt đất rung động lan tỏa rất lâu, cả bầu trời bừng sáng chói chang chiếu đến vô biên theo mọi hướng. Các tầng trời rung động dữ dội. Chư Thiên các tầng trời chắp tay bay về Uruvela để đảnh lễ Đức Phật đến từ Sakya. Đức Phật tiếp tục ngồi an trú trong quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác.

Vô số chư Thiên, chư BTát bay về chật kín cả bầu trời để đảnh lễ Ngài. Các vị thần tấu lên những khúc nhạc du dương để ca ngợi Phật. Người dân Uruvela vẫn vô tư không hay biết chuyện gì vừa xảy ra gần họ, nhưng trong suốt bảy ngày đó cả làng tràn ngập niềm vui, mọi người đều hoan h, ai cũng yêu quý nhau, công việc của họ gặp nhiều thuận lợi, may mắn. Ban đêm, bầu trời không tối đen mà cứ sáng sáng giống như đêm rằm, nhưng ánh sáng như có nhiều màu sắc kỳ lạ, vang vang trong không khí là tiếng nhạc dìu dặt.

Các thám tử cũng có cảm giác rất lạ về Thái Tử của họ nhưng không thể lại gần vì như có sức mạnh vô hình không cho đến gần nên phải đành đợi vài hôm.
Trời đã sáng, Ngài ngồi bất động dưới gốc cây bồ đề. Chợt một vị Phạm Thiên hiện ra, quỳ đảnh lễ Phật và xin Đức Phật thuyết giảng chân lý giác ngộ cho chúng sinh.

“Rất nhiều chúng sinh đã sẵn sàng đón nhận giáo pháp cao quý này. Nhưng nếu họ không có cơ hội nghe họ có thể bị thoái đọa. Có những chúng sanh căn tánh hạ liệt khó hóa độ, nhưng nếu họ được nghe giáo pháp này, họ sẽ có cơ hội chuyển hóa nghiệp duyên của mình. Cúi xin Thế Tôn hãy từ bi thương tưởng chúng sinh”.
“Này Phạm Thiên, cửa chân lý bất tử đã mở ra, ai muốn nghe hãy lắng lòng cố gắng”.

Vị Phạm Thiên vui mừng chắp tay, đi quanh Phật ba vòng rồi biến mất. Phật hướng tâm về hai tu viện của Alaka Kalama và Uddaka Ramaputta thì thấy hai vị đạo sư kia đã qua đời và sinh vào cõi trời vô sắc. Phật hướng tâm về phía tây thì thấy năm anh em Kiều Trần Như đang buồn bã, kẻ đng người ngồi trong khu vườn Nai. Phật mở mắt ra, ánh mắt Người dịu dàng, bình lặng, sáng trong. Phật từ từ đứng dậy, vén lại tấm y, bước ra khỏi gốc cây một khoảng xa rồi xoay người lại nhìn cây. Phật đứng im như vậy nhìn cây suốt cả một đêm.
Sáng hôm sau, Phật bước dần ra khỏi khu rừng về phía con đường mòn. Đến gần đường, Ngài ngồi lại dưới một gốc cây và nhắm mắt thiền định. Có một đoàn xe ngựa đi đến, chợt từ bên đường một vị thần hiện ra kêu Tapussa và Bhalliya đến cúng dường cho Đức Phật ở gần đó. Nghe vậy, hai người vội lấy bánh và mật ong đi theo hướng mà vị đó vừa chỉ. Khi đến cúng dường nhưng lại không thấy bát của Phật, đang phân vân không biết sớt thức ăn vào đâu. Chợt có bốn vị
Trời hiện ra dâng bốn chiếc bát. Phật đưa tay nhận cả bốn chiếc bát, bất ngờ cả bốn chiếc nhập lại thành một chiếc bát đơn sơ rắn chắc. Xong bốn vị Trời biến mất.
“Này Tapussa và Bhalliya, hãy tránh những điều ác, làm điều lành và giữ tâm thanh tịnh”.
“Chúng con xin quy y với Ngài và giáo pháp của Ngài. Suốt đời, chúng con hết lòng tôn kính”, Phật kẽ gật đầu.
Đợi Phật thọ thực xong, hai người rót nước vào bát để Phật uống, rồi rót nước cho Phật rửa tay. Sau đó, hai người đảnh lễ Phật rồi ra đi. Đi được một đoạn Sujatha và bốn người đàn ông chặn lại hỏi tung tích về Đức Phật. Bhalliya kể lại mọi chuyện. Rồi tất cả đi theo hướng ngược lại, chợt một vị thần hiện ra và nói rằng, Thế Tôn đã đắc thành Phật quả vô thượng, từ nay Ngài là thầy của vạn loài chúng sinh, các người không phải nhọc công lo lắng và bảo vệ Ngài nữa. Sau này, các ngươi sẽ gặp lại Ngài và hưởng nhiều phước báo vi diệu. Hãy quay về báo tin mừng cho đức vua.

Nhưng họ vẫn đi tìm và thấy Ngài dưới một gốc cây. Cả năm quỳ trước mặt Phật và bật khóc vì sung sướng. Đức Phật nói: “Các ngươi hãy quay về Ca Tỳ La Vệ, sau này sẽ gặp lại Như Lai. Đừng kể ai nghe về các việc các ngươi đã làm, bây giờ Như Lai đến chỗ năm anh em Kiều Trần Như để hóa độ cho họ”.
Sujatha dọn dẹp mọi thứ từ giã mọi người trong làng ra đi. Trong kinh thành
Ca TLa Vệ lúc bấy giờ, hay tin báo về Ngài đã đắc đạo phi thường. Lệnh truy bắt năm anh em Kiều Trần Như cũng được rút lại. Còn lòng của công chúa Da Du Đà La thì đang háo hức mong chờ Ngài quay về đưa mình đi tìm giải thoát giác ngộ như lời hứa.
Lúc này, Phật đang đi bộ trên con đường mòn. Ngài gặp một đạo sĩ đang đi ngược lại, vì thấy dung mạo Ngài kỳ tuyệt, ngũ căn sáng tỏ thanh tịnh, phong cách đường bệ đĩnh đạc như có một nội tâm siêu việt nên liền hỏi đạo sư, giáo pháp của Ngài. Ngài liền trả lời: “Này Upaka, Như Lai đã giải thoát, đã
dập tắt mọi ái thủ, đã chiến thắng vô minh, đã dừng lại luân hồi. Như Lai không có ai là đạo sư mà Như Lai chính là đạo sư”.
Vì chưa từng có ai dám tuyên bố như thế nên Upaka có vẻ nghi ngờ rồi chào đi luôn. Phật lặng lẽ ôm bình bát đi tiếp. Đi đến khúc đường vắng, Ngài bất ngờ biến mất và hiện ra tại một con đường mòn khác.

Lúc này, năm anh em Kiều Trần Như luôn cảm thấy bất an vì rời bỏ Thế Tôn, niềm quý kính của họ đã ăn sâu vào tâm thức. Chỉ vì từ bỏ con đường khổ hạnh mà họ cho là cao quý nên bị sụp đổ. Nhưng niềm ray rứt ấy vẫn không thôi, khiến họ ăn không ngon ngủ không yên. Họ cầu mong Ngài quay lại khổ hạnh để họ quay về. Bất chợt bóng Ngài xuất hiện, mọi người không làm gì, cứ nhìn chăm chăm về phía Phật xong làm lơ như không thấy gì. Phật vẫn đứng yên lặng, toàn thân toát ra vẻ siêu phàm. Một hồi lâu, năm anh em không kiềm được lòng nữa, chạy đến bên Phật. Người cầm bát, người cầm tay, người vịn tấm y, người bật khóc thành tiếng. Rồi, năm anh em dọn chỗ cho Phật ngồi. Bhaddiya lấy nước rửa chân cho Phật. Xong, năm người ngồi xung quanh Phật như muốn nghe.

“Thưa hiền giả GOTAMA (Cồ Đàm), hiền giả có khỏe không, có được thân ít bệnh tật, tâm ít phiền não an vui không ạ?”
“Này các tỳ kheo, đừng gọi ta là hiền giả, Như Lai là bậc A La Hán, là bậc giác ngộ. Như Lai đã giải thoát, đã
dập tắt mọi ái thủ, đã chiến thắng vô minh, đã dừng lại luân hồi. Và như vậy, này các tỳ kheo, đừng gọi Như Lai là hiền giả”.

Rồi, Ngài dạy cho năm anh em con đường ở giữa tránh khỏi cực đoan hai bên sai lầm. Cực đoan thứ nhất là sống hưởng thụ ngũ dục, hưởng hết phước quá khứ của mình. Vùi tâm hồn trong cấu uế, làm tăng trưởng khát ái dục tham, nuôi lớn chấp ngã vô minh. Cực đoan thứ hai là sống ép xác khổ hạnh vô ích. Và Đức Phật tuyên bố rằng Ngài đã khổ hạnh mà trước kia chưa ai làm nổi và sau này cũng vậy. Ngài đã đến ranh giới của cái chết vì khổ hạnh tột cùng nhưng sự giác ngộ vẫn không xuất hiện, điều đó chứng tỏ khổ hạnh không phải là con đường đưa đến giác ngộ. Cả hai cực đoan hưởng thụ hay khổ hạnh đều không phải là con đường đưa đến giác ngộ.

Rồi Phật giảng tiếp TỨ DIỆU ĐẾ cho năm anh em:
– Sự thật thứ nhất là đau khổ: Gồm tám cái khổ.

SINH KHỔ: đời sống là đau khổ, tất cả chúng sinh vì bản năng sinh tồn mà phải bươn chải vất vả biết bao nhiêu. Có khi vì sự sống của mình mà gây ra tội các, gây ra chết chóc cho chúng sinh khác. Mỗi miếng cơm ăn, mỗi manh áo mặc đều là mồ hôi, nước mắt thậm chí là tội lỗi.

LÃO KHỔ: già là đau khổ vì sức yếu, không làm chủ được cơ thể của mình, muốn làm gì cũng không được phải nhờ cậy vào người khác, gây nên gánh nặng cho người khác và dần dần bị người khác xem thường, chúng sinh tuổi già cũng mất dần trí tuệ.

BỆNH KHỔ: có khi bệnh duyên xảy ra lúc người già, cơ thể ốm yếu, càng khiến chúng sinh khổ sở biết bao nhiêu. Có khi bệnh duyên xảy ra lúc còn trẻ, xảy ra cho người giàu còn xoay sở, xảy ra cho người nghèo càng đau khổ biết chừng nào. Có những bệnh thoát ra rồi lành, có những bệnh khốc liệt khiến chúng sinh đau đớn gần như chết. Cơ thể nào cũng không hoàn hảo, đều là hang ổ cho bệnh tật xuất hiện.

TỬ KHỔ: chúng sinh phải chịu một sự đau đớn nào đó rồi mới chết được, chết rồi chưa phải là hết, mà chúng sinh cũng chịu sự dày vò của tâm lý, đau khổ, nuối tiếc, ham sống. Nghiệp đói khát bất an vẫn đeo đuổi chúng sinh sau cái chết cho đến khi chúng sinh tái sinh vào một đời sống mới và đón nhận nghiệp của đời sống đó.

ÁI BIỆT LY KHỔ: điều chúng sinh ham thích nhưng không có được khiến chúng sinh đau khổ. Chúng sinh muốn tìm dục lạc, tìm sung sướng, đâu ngờ chính cái tìm cầu đó làm đau khổ. Chúng sinh vị duyên nghiệp ràng buộc nên ái luyến nhau, nhưng sự đời vô thường, những người yêu quý nhau rồi sẽ phải xa nhau, càng chồng chất thêm nỗi đau khổ trong lòng.

OÁN TẮNG HỘI KHỔ: những điều chúng sinh sợ ghét, nhưng không tránh khỏi, phải đón nhận thật là đau khổ. Chúng sinh ghét nghèo xấu, bệnh, tai họa, kẻ thù, nhưng rồi phải gặp và đón nhận, thật đau khổ.

CẦU BẤT ĐẮC KHỔ: chúng sinh suốt đời mong cầu hết điều này đến điều khác, nhưng cầu được rồi cũng sẽ mất, cầu không được lại càng đau khổ hơn. Điều mong cầu càng to lớn thì đau khổ càng lớn theo.

NGŨ UẨN XÍ THẠNH KHỔ: thân tâm chúng ta là do năm thủ uẩn hợp thành. Đó là sắc – hình dáng, thọ – cảm giác, tưởng – ý nghĩ, hành – tâm điều khiển và thức – biết. Năm thủ uẩn này hoạt động căng thẳng mới thực sự là đau khổ. Tất cả đau khổ trước kia chính là do năm thủ uẩn căng thẳng, năm thủ uẩn càng căng thẳng chừng nào thì nỗi đau khổ càng lớn chừng nấy.
Sự thật thứ hai, ái dục là nguyên nhân của đau khổ: chúng sinh vô minh chấp ngã nên chìm đắm trong ái dục. Chúng sinh ham muốn, khát khao tìm cầu sự hưởng thụ của dục lạc, tâm càng lúc càng tăm tối mờ mịt, loạn động, điên cuồng rồi tìm cầu dục lạc mà gây ra biết bao nghiệp chướng, nghiệp chướng lại càng khiến chúng sanh bị lôi cuốn vào dòng luân hồi vô tận.
Sự thật thứ ba, NIẾT BÀN là trạng thái chấm dứt hoàn toàn đau khổ. Khi một chúng sinh tu tập chứng đạt được niết bàn thì mọi đau khổ chấm dứt, khát ái diệt tận, vô minh ngã chấp tan biến, luân hồi dừng lại. Niết bàn cực kỳ sáng suốt mà cũng cực kỳ tịch tĩnh. Niết bàn cực kỳ từ bi mà cũng cực kỳ trí tuệ, niết bàn là trạng thái vô ngã hoàn toàn.
Sự thật thứ tư, BÁT CHÁNH ĐẠO: là con đường đưa đến niết bàn giải thoát.

CHÁNH KIẾN: là hiểu rõ giáo pháp không lầm lẫn, để định hướng tu hành mãi mãi về sau. Nếu chưa có chánh kiến thì việc tu hành tiếp theo sẽ phạm sai lầm. Khi có sẽ làm cho sự tu hành tiếp theo càng làm cho chánh kiến sáng tỏ hơn.

CHÁNH TƯ DUY: là suy nghĩ đúng, chúng sinh phải tự quan sát những suy nghĩ của mình, biết rõ ý nghĩ nào đúng, ý nghĩ nào sai, quyết tâm diệt trừ những ý nghĩ sai với giáo pháp, để cuối cùng mọi ý nghĩ đều thuần thiện, hợp với giáo pháp như vậy tâm hồn trở nên thuần khiết trong lành.

CHÁNH NGỮ: tu tập lời nói của mình sao cho mọi lời nói ra đều hợp với giáo pháp, hợp với lẽ phải, đem lại an vui lợi ích cho mọi người, chúng sinh quanh mình. Chúng sinh phải dứt trừ những lời nói thô ác, hiểm độc, dối trá, không gây đau khổ cho người khác để không gây ác nghiệp cho mình.

CHÁNH NGHIỆP: là chánh xa những hành vi sai trái, ác độc làm đau khổ cho kẻ khác, làm mê mờ tâm trí kẻ khác. Chúng sinh phải cố gắng làm những thiện nghiệp đem lợi ích, an vui, đạo lý cho mọi người. Chính nghiệp như thế tạo thành công đức lành lớn lao chuẩn bị cho sự tu tập thiền định về sau.

CHÁNG MẠNG: Ai cũng tìm cái ăn mặc để sống, nhưng người đi trong chánh pháp thi phải có chánh mệnh, nghĩa là chỉ kiếm sống bằng nghề lương thiện, tuyệt đối đừng làm nghề ác xấu khiến cho ác nghiệp mình đeo đuổi không thoát. Nghề lương thiện tạo thành phúc lành, càng làm càng có phúc. Còn tà mệnh, nghề bất lương thì càng làm càng có tội lỗi.

CHÁNH TINH TẤN: chúng sinh phải nỗ lực rất nhiều nhưng không được ham nhanh mà dằn ép. Phải cố gắng rất nhiều nhưng không được trở thành sôi nổi phô trương. Sự tinh tấn bền bỉ đó là yếu tố quan trọng cho việc tu tập thiền định tiếp theo, vì công phu thiền định cực kỳ gian khó, ai không đủ dung lực kiên trì bền bỉ thì sẽ dang dở công phu.

CHÁNH NIỆM: Chúng sinh phải thường xuyên tỉnh giác biết rõ toàn thân, biết rõ bản chất vô thường của thân, biết rõ mọi hành vi cử chỉ của thân. Chúng sinh phải biết rõ hơi thở ra, hơi thở vào rõ ràng. Và như vậy, tâm sẽ trở nên tỉnh giác biết được sự sinh diệt của ý niệm.

CHÁNH ĐỊNH: sau khi thuần thục trong chánh niệm, chúng sinh sẽ nhập dần dần các mức thiền từ sơ thiền đến nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Nơi mức thiền này, hành giả sẽ hướng tâm về quá khứ để biết vô lượng kiếp của mình mà đắc Túc Mạng Minh, quan sát sự lưu chuyển sinh tử của chúng sinh trong pháp giới mà đắc Thiên Nhãn Minh, thấu rõ tứ diệu đế mà đắc Lậu Tận Minh. Như vậy là thành tựu giác ngộ giải thoát viên mãn.

“Này các tỳ kheo, đây là TDiệu Đế mà ba đời mười phương Chư Phật đều tuyên thuyết. Hôm nay, Như Lai cũng tuyên thuyết, mở ra con đường bất tử cho Chư Thiên và Loài Người”.
Ngay lúc đó, Kiều Trần Như sực tỉnh, gương mặt rạng ngời, nội tâm khai mở và thốt lên rằng: “Tất cả những gì có sinh đều phải có diệt. Bạch Thế Tôn, hôm nay con đã thấy được chính pháp, tâm con đã được sang một trạng thái mới. Con có đủ niềm tin nơi thế tôn là bậc Chính Đẳng Giác, con đủ niềm tin nơi giáo pháp của Thế Tôn tuyên thuyết là con đường thoát khổ cho chúng sinh, con đủ niềm tin nơi bất cứ ai làm đệ tử chân chính của
Thế Tôn sẽ được giác ngộ. Xin Thế Tôn chứng minh cho con vì si mê nên đã hiểu lầm Thế Tôn, xin Thế Tôn chấp nhận con làm đệ tử của người”.
Kiều Trần Như quỳ lễ Phật ba lễ xong thì râu tóc của Ngài biến mất.
“Lành thay, này Kondanna, ông đã được chánh pháp nhãn tạng, đã vào dòng thánh, chứng được sơ quả Tu Đà Hoàn”.

Bốn người còn lại vừa vui mừng, vừa thắc mắc không hiểu Kondanna chứng được điều gì. Kodanna kêu mọi người cùng đảnh lễ Thế Tôn. Trên trời có tiếng nhạc du dương, chư Thiên cất lời ca ngợi. Kodanna cùng các đệ bảo nhau dọn dẹp chỗ cho Thế Tôn nghỉ, che lại mái lá, làm lại sàn tọa. rồi chia luân phiên đi khất thực mang về cho Phật dùng. Đức Phật ngồi dưới tàng cây, lều dựng xong, Đức Phật vào lều nằm nghỉ. Đêm xuống, có vị còn ngồi thiền, có vị vào lều nghỉ ngơi. Buổi sáng đẹp trời, Kodanna ra suối lấy nước về đổ vào chè, còn bốn người kia ôm bát vào làng khất thực. Sau đó, mọi người cùng nhau thọ thực, sau khi xong, Vappa rót nước để Phật rửa tay. Rồi năm anh em hỏi về việc Đức Phật rời hai vị Alaka Klama và Uddaka Ramaputta vì không trả lời được câu hỏi về vô ngã và Ngài tự đi tìm câu trả lời.

Nên năm anh em xin Phật giảng cho nghe ý nghĩa về Vô Ngã. Thân và tâm được hợp thành từ năm thủ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm thủ uẩn này hợp với nhau giống như là có cái bên trong, khiến chúng ta sinh mê lầm, thấy có thật, thấy mình là quan trọng, rồi tìm cầu cho mình đủ điều dục lạc, gây tạo cho mình biết bao nhiêu nghiệp chướng. Cũng vì cái ta hư ảo này mà chúng sinh hơn thua với nhau, đố kỵ với nhau, tự ái phiền não với nhau. Bây giờ, nếu nói rằng thật, không có cái ta thì chúng sinh không tin, không hiểu. Chỉ những ai rất thiện căn trí tuệ mới cảm nhận được cái ta là cái ràng buộc, là chướng ngại, là hư ảo. Và cũng chỉ những ai chứng quả vị A La Hán mới thoát khỏi sự ràng buộc chấp ngã hoàn toàn.
“Này các tỳ kheo, các ông hãy cố gắng dụng công thiền định, vì chỉ có chứng đạt thiền định và tuệ giác thì mới giải thoát. Hãy ngồi thiền như Như Lai đã hướng dẫn. Hãy ngồi kiết già, buông nhẹ toàn thân, cảm giác toàn thân, biết rõ hơi thở ra, biết rõ hơi thở vào. Hơi thở dài biết dài, hơi thở ngắn biết ngắn. Biết hơi thở vào và cũng biết thân này là vô thường, thân này rồi sẽ chết, sẽ hoại diệt, ngay cả xương cũng thành bụi tan vào đất.”

Năm anh em thực hành lời Phật dy. Họ ngồi thiền khi bình minh lên, đi vào làng khất thực rồi lại ngồi thiền khi mặt trời xuống.
Đến chiều tà Phật lại giảng tiếp bài pháp hôm qua: “Này các tỳ kheo,
vô ngã không phải là hư vô như cây đá, mà đó là sự sáng suốt tột cùng. Sự sáng suốt này khác hn cái biết của thức uẩn. Thức uẩn cũng biết nhưng vẫn còn cái ta và cái biết còn hạn chế. Sự sáng suốt của vô ngã thì không còn giới hạn, phủ trùm, thẩm sâu, ở trong vạn hữu mà thoát ngoài vạn hữu”.

Nghe xong bài kinh, Kondanna (Kiều Trần Như) chứng quả A La Hán, đã giác ngộ giải thoát viên mãn. Vappa và Bhadiya cũng chứng Tu Đà Hoàn và xin Đức Phật nhận làm đệ tử của Ngài. Sau khi Đức Phật ấn chứng, râu tóc của hai vị đều được cạo sạch.
Đêm xuống, sáu thầy trò ngồi thiền giữa tàng cây. Sáng hôm sau, bốn vị tỳ kheo vào làng khất thực. Asaji và Mahamana quỳ đảnh lễ Phật, hai vị cũng đã chứng A La Hán. Chỉ trong vài ngày, năm anh em Kondana cũng đều chứng A La Hán. Các vị Chư
Thiên trên các tầng trời chắp tay nhìn theo, hạnh phúc thay khi Đức Phật đã hóa độ thêm được năm vị A La Hán. Vậy là thế gian đã có tất cả sáu vị A La Hán.


TẬP 11: BÌNH MINH CHÁNH PHÁP

Trong một cuộc nói chuyện của Thái Tử Nanda và Vua Tịnh Phạn: Công nương Yashodara (Da Du Đà La) định giao hết lại hệ thống đang hoạt động ở các nước cho Thái Tử NanDa (Nan Đà) điều hành, tuy nhiên ngài lại lo ngại không dám nhận vì sợ không chỉ huy nổi. Vua Tịnh Phạn khuyên bảo: ban đầu công nương Yashodara sẽ kèm, rồi dần dần sẽ giao lại toàn bộ cho ngài.
Cả tháng nay, Thái Tử Siddhattha biến mất khỏi tầm quan sát của các thám tử nên ngài NanDa cho người tỏa ra đi tìm. Tuy nhiên, ngài lại không có cảm giác lo lắng và có suy nghĩ có lẽ Thái Tử Siddhattha đã đắc đạo rồi nên thần thông tự tại. Vua Tịnh Phạn nói với Thái Tử NanDa (Nan Đà) biết được Thái Tử Siddhattha (Tất Đạt Đa) ở đâu thì cho người đến bảo Thái Tử Siddhattha quay về thăm lại hoàng cung.

Đêm xuống, trong căn phòng bí mật, Công nương Yashodara (Da Du Đà La) nói với các thám tử, mặc dù các thám tử đã mất dấu Thái Tử Siddhattha (Tất Đạt Đa) nhưng Người lại không trách tội vì Người nghĩ Thái Tử đã đắc đạo rồi nên tự tại vân du. Công nương chắc chắn một lúc nào đó, Thái Tử Siddhattha (Tất Đạt Đa) sẽ quay lại để truyền dạy chánh pháp cho mọi người. Nên Người ra lệnh cho các thám tử phải lập nên một hệ thống cư sĩ ủng hộ cúng dường, để việc truyền giáo của Thái Tử được lan truyền rộng rãi và hỏi ý kiến các thám tử về việc ủng hộ Thái Tử truyền giáo. Các thám tử đưa ra ý kiến: tùy theo phạm vi hoạt động của Thái Tử sẽ xây dựng hệ thống ủng hộ Thái Tử tại đó. Và đề xuất thương gia Sudatta (Tu Đạt) hay còn gọi là Anathapindka (Cấp Cô Độc) kinh doanh rất thành công và giàu nhất tại kinh thành Savatti (Xá Vệ) là người do Thái Tử trước kia đã đào tạo nên, sẽ làm nhiệm vụ dốc tiền ủng hộ Thái Tử truyền giáo.

Tại kinh thành Benres (Ba La Nại), là một thành phố lớn uốn cong nằm phía Bắc dòng sông Hằng, thuộc nước Ma Kiệt Đà, ở Tây Nam Osala, nơi có tập tục tắm nước sông Hằng linh thiêng. Trong sân một ngôi nhà giàu, ba mẹ Yasa thường xuyên tổ chức những cuộc vui để làm vui lòng công tử. Tuy nhiên, Yasa (Da Xá) không thích những cuộc vui rỗng tuếch và vô bổ như vậy, công tử nghĩ chẳng lẽ cuộc đời này chỉ có bấy nhiêu hay sao.

Trong lúc mọi người say sưa ăn uống vui vẻ, Yasa vẫn rất ưu tư và thấy ngột ngạt nên đã lẻn đi ra ngoài và gọi người hầu lấy xe đưa chàng ra khỏi kinh thành. Sau khi đưa tiền và đuổi người lái xe về, Yasa thơ thẩn đi vào rừng một mình, vừa đi vừa nghĩ: “Đời khổ quá, vô nghĩa quá, trống rỗng quá”. Tại khu vườn Nai, Phật và năm vị tỳ kheo đang ngồi thiền trên các phiến đá.

Bỗng nhiên, Phật biến mất và hiện ra trên con đường mà Yasa đang đi. Phật lên tiếng khi Yasa đi ngang qua mà không thấy Phật ngồi: “Này Yasa, hãy đến đây. Nơi đây không có đau khổ, nơi đây không có vô nghĩa, nơi đây không có trống rỗng”.

Yasa quỳ xuống và đảnh lễ Phật. Phật thuyết giảng: “Mọi việc trên đời đều do NGHIỆP DUYÊN NHÂN QUẢ chi phối. Ai trong quá khứ từng làm nên những thiện nghiệp giúp đỡ chúng sinh, cung kính bậc Thánh sẽ sinh về cõi người, cõi trời hưởng nhiều phúc lạc. Ai trong quá khứ đã từng gây nên những ác nghiệp gây tổn hại chúng sinh, phỉ báng bậc Thánh, sẽ đọa vào nơi như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh để chịu nhiều đau khổ.

LUẬT NHÂN QUẢ chi phối cả sự tu tập và chứng ngộ của chúng sinh. Một kẻ gây nhiều ác nghiệp thì không thể tu chứng cho đến khi kẻ ấy trả hết nghiệp xấu ác của mình và tạo nên nhiều thiện nghiệp mới. Những ai sống thuần thiện hiền lành sẽ dễ dàng trong việc tu chứng. Hiu được LUẬT NHÂN QUẢ, chúng sinh sẽ biết cố gắng tránh xa các điều ác, cố gắng làm các điều lành để được tăng trưởng trong thiện pháp. Chúng sinh lấy thiện nghiệp làm chỗ nương tựa, làm chỗ y cứ, chứ không phải thần linh nào đã quy định số phận cho họ.

Tâm của Yasa đã dần bình lặng, Phật chuyển sang nói về Tứ Diệu Đế: “Có bốn sự thật mà một bậc thánh chứng biết. Sự thật thứ nhất KHỔ ĐẾ: bản chất của cuộc đời là khổ. Sự thật thứ hai TẬP ĐẾ: nguyên nhân của khổ. Sự thật thứ ba DIỆT ĐẾ: niết bàn an lạc. Sự thật thứ tư ĐẠO ĐẾ: con đường Bát Chánh đưa đến niết bàn an lạc”.

Bất chợt Yasa ngộ đạo, chứng quả Dự Lưu lòng hân hoan buột miệng nói: “Bạch Thế Tôn con đã thấy, con đã biết, phàm những gì có sinh ra đều phải có lúc hoại diệt, con tin pháp của Thế Tôn tuyên thuyết là chánh pháp, con tin những ai đi theo sự dạy bảo của Thế Tôn, con tin Thế Tôn là Đấng Giác Ngộ, là những vị tu hành đáng kính, con xin Thế Tôn cho con xuất gia trong pháp và luật của ngài”. Sau đó, Yasa chấp tay đi theo Phật, về đến chòi, Phật nhờ tôn giả Asaji dạy ngồi thiền và sắp chỗ nghỉ cho Yasa.

Về gia đình của Yasa (Da Xá), mọi người đang rất lo lắng khi công tử Yasa đi vắng cả đêm qua. Cha của Yasa cùng với người hầu đi tìm khắp nơi, rồi men theo đường mòn vào trong rừng thì nhìn thấy căn chòi lá có sáu vị Sa Môn đang ngồi gần đấy. Yasa đang đứng cạnh Phật nhưng ông không nhìn thấy vì Phật đã dùng thần thông che Yasa lại. Ông quỳ xuống đảnh lễ Phật và hỏi Phật có thấy Yasa đi ngang qua đây không.
Phật mời cha của Yasa hãy ngồi xuống, Phật sẽ nói cho nghe. Cha Yasa cùng hai người hầu ngồi xuống nghe Phật nói về Pháp Thuận Thứ Nhân Quả Nghiệp Báo. Sau khi Phật nói xong bài pháp, Cha Yasa bừng ngộ: “Bạch Thế Tôn, con xin quy y với Ngài, quy y với giáo pháp của Ngài, và quy y với chúng tăng của Ngài, từ đây cho đến mạng chung con trọn đời quy ngưỡng”.

Phật rút thần thông lại, ông chợt nhìn thấy Yasa đang đứng cạnh Phật. Ông nói vì Yasa đi vắng cả đêm làm cho cả nhà lo lắng, hãy trở về với cha, mẹ và vợ của mình. Yasa thưa với cha rằng ngài không thể sống đời được nữa. Cuộc đời đầy đau khổ, vô vị, trống rỗng, công tử xin được xuất gia theo Thế Tôn. Phật nói: “Này trưởng giả cha của Yasa, thật là tốt lành khi một người xuất gia tu hành. Và cũng thật tốt lành, khi có một người con xuất gia tu hành. Trưởng giả hãy để cho Yasa được toại nguyện”. Cha Yasa ngẩn ngơ ngm nghĩ một hồi lâu sau đó nhận lời và xin kính thỉnh Thế Tôn và các vị tỳ kheo đây đến nhà thọ trai vào ngày mai, có cả Yasa nữa để gia đình có thể gặp Yasa lần cuối. Phật im lặng nhận lời.
Sau đó, Phật thuyết giảng cho Yasa nghe về
VÔ NGÃ TƯỚNG. Cuối bài pháp, Yasa chứng A La Hán. Sau khi được Phật ấn chứng, lập tức tóc trên đầu Yasa biến mất, y phục sặc sỡ trên người cũng biến thành tấm y cà sa giản dị.

Đêm xuống trong rừng tĩnh mịch, tôn giả Asaji đưa tay lên, một phiến đá rộng và to từ xa lập tức bay về gần khu chòi và rơi xuống dưới gốc cây. Tôn giả Asaji lại tiếp tục đưa tay lên điều khiển, sáu phiến đá khác bay lên và xếp thành hình vòng cung. Sau đó, tôn giả kính thỉnh Thế Tôn ngồi trên phiến đá lớn để các vị tỳ kheo được quây quần hầu chuyện.

Câu hỏi của các vị tỳ kheo & Lời đáp của Đức Phật:

– Q: Tôn giả Konanna thưa với Thế Tôn, khi lần đầu nghe Thế tôn giảng về Tứ Diệu Đế, ngài được khai ngộ, thấy được pháp. Sau này, khi nghe Thế Tôn giảng về Vô Ngã Tướng ngài đã chứng được giải thoát hoàn toàn, tự biết mình hết vô minh. Ngài chưa tỏ sự khác nhau giữa lần đầu và lần sau là như thế nào.

– A: Thế Tôn giải thích vì lần đầu khi Phật giảng về Tứ Diệu Đế, tỳ kheo Kondanna đã chứng được Sơ quả nhập lưu Sotapanna – Tu Đà Hoàn, lẽ ra tỳ kheo Kondanna phải chứng lần lượt Nhị quả: Sakadagami – Tu Đà Hàm, Tam quả Angamin – A Na Hàm, cuối cùng là Tứ quả Arahanta – A La Hán. Nhưng vì nhân duyên đã đủ nên tỳ kheo đã vượt lên chứng luôn tứ quả A La Hán và các vị tỳ kheo còn lại cũng vậy.

– Q: Một vị tỳ kheo khác: khi Thế Tôn và các vị tỳ kheo đều cùng chứng quả A La Hán, tự biết rằng đã giải thoát hoàn toàn, vô minh đã hết, việc làm đã xong, không còn tái sinh đời sau. Tuy nhiên, ngài thắc mắc tại sao Thế Tôn có thể phân định giáo pháp rạch ròi có hệ thống từ lý nghiệp báo, đến Tứ Diệu Đế, đến Bốn Quả Thánh mà các vị tỳ kheo lại không thể phân định hệ thống những điều đó.

– A: Thế tôn giải thích: Tuy trạng thái giải thoát là giống nhau, nhưng Thế Tôn là Phật, là người mở đường viên mãn trên hai phương diện Phước và Tuệ, thấy rõ pháp, phân định pháp. Các vị tỳ kheo không thể so sánh với Thế Tôn về dung sắc, trí tuệ, công đức và thần lực.

– Q: Tỳ kheo Yasa hỏi Thế Tôn: một vị Phật như thế thì bao lâu mới xuất hiện một lần trên cõi đời này?

A: Thế Tôn đáp: một vị Phật như thế thì rất lâu mới xuất hiện một lần, vị Phật này chỉ xuất hiện khi giáo pháp của vị Phật trước đã biến mất từ rất lâu. Cũng không bao giờ hai vị Phật xuất hiện đồng thời.

Khi bình minh lên, Phật và các vị tỳ kheo đi ra khỏi khu rừng, có một con hổ đang rình những con nai gần đấy, Phật nói tôn giả Asaji đuổi con cọp đi. Tôn giả Asaji lập tức biến mất rồi hiện ra trước mặt con hổ, ngài nói: “Này loài súc sinh kia, ngươi vì ngu si mà đọa vào thân hổ, ta khuyên ngươi ráng tu hành để thoát kiếp súc sinh. Sau này, gặp Chánh Pháp để tu hành, ta thọ ký cho tất cả loài hổ các ngươi vĩnh viễn không bao giờ tìm về khu rừng Isipatana này để săn mồi nữa”. Con hổ gầm gừ vài tiếng rồi bỏ đi.

Khi tôn giả Asaji quay lại thưa với Thế Tôn đã đuổi được con hổ đi. Tôn giả Kondanna nhắc Thế Tôn giờ phải thời đến nhà thân phụ của Yasa để thọ trai. Kính thỉnh Thế Tôn và các vị tỳ kheo lên đường, tôn giả ở lại làm vài việc rồi sẽ đến sau. Tôn giả Kondanna dùng thần thông lấy nhiều tre và cỏ tranh rồi ráp tất cả lại với nhau để tạo thành một khu nhà đơn sơ mà xinh xắn. Căn chòi của Phật rất đẹp nằm ở giữa, căn chòi to của các vị tỳ kheo nằm một bên. Bên trong, có những chiếc giường tre nhỏ gọn cho từng người. Xa xa ngài làm hai mái nhà vệ sinh, con đường mòn hiện ra dẫn từ khu nhà ra khỏi rừng.

Xong việc, ngài hiện ra nối bước theo sau Phật và năm vị tỳ kheo đi vào thành Benares, đến trước nhà của Yasa. Cha của Yasa ra cửa đón tiếp rất ân cần. Khi vào nhà, nhìn thấy Yasa mọi người đều sững sờ, vợ Yasa thì khóc tức tưởi nhưng tôn giả Yasa vẫn bình thản. Phật và các vị tỳ kheo thong thả ăn trong im lặng. Rất đông bạn bè thân hữu họ hàng của Yasa kéo về chật quanh nhà để xem sự kiện này và bàn tán xôn xao:
– Yasa rất an lạc, ước gì tôi cũng được an lạc như thế?
– Anh Yasa của chúng ta xuất gia làm sa môn chỉ trong một đêm, ngày hôm qua cha của anh còn đi tìm mà hôm nay anh ta đã hoàn toàn khác.
– Gia tài mà anh ta thừa hưởng là cực k
giàu có.
– Cha anh ta là trưởng giả quyền lực nhất thành phố này.
– Thật không hi
u tại sao anh ta lại bỏ hết để xuất gia.
– ….

Thọ thực xong, các gia nhân dọn dẹp và mang nước đến cho các vị rửa tay, rửa bát. Cha của Yasa thưa: “Bạch Thế Tôn, đây là gia quyến của con, gia tộc chúng con là gia tộc quyền quý ở Benares này, Yasa là người con thông minh, đạo đức bậc nhất mà chúng con rất yêu mến. Nay Yasa đã xuất gia làm sa môn, chúng con cảm thấy rất đau buồn và mất mát rất lớn. Nhưng con tin Yasa chọn lựa đúng, cúi xin Thế Tôn hãy ban cho chúng con vài lời của Chánh Pháp”.

Thế Tôn giải thích: sự quyền quý hay nghèo hèn của chúng sinh đều do NGHIỆP từ quá khứ tạo nên. Trong những đời trước, ai biết làm thiện nghiệp với thân, với khẩu, với ý thì đời sau sẽ tái sinh vào cõi trời, cõi người nhiều may mắn. Trong những đời trước, ai biết bố thí cho người nghèo khó, ai biết cúng dường các vị Bà La Môn hoặc Sa Môn khả kính thì đời sau tái sinh về cõi trời, cõi người giàu sang. Ngược lại, ai làm các ác nghiệp với thân, với khẩu, với ý, giết hại, trộm cướp, tà hạnh, phỉ báng các bậc Thánh, thì sẽ tái sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Các ông phải hiểu rằng mình là người quyền quý là do đời trước đã làm được nhiều công đức vì thế hãy tiếp tục làm những điều thiện. Vì thế, hãy về nương tựa với Chánh Pháp để có ngày thoát khỏi luân hồi sinh tử. Này cha của Yasa, hãy vui mừng vì gia đình ông có người con xuất gia làm sa môn tu hành đắc thành Thánh quả giải thoát”.
Cha Yasa thưa: từ khi Thế Tôn và các vị sa môn đệ tử đặt chân đến nhà con, gia quyến bạn bè con ai cũng trầm trồ về uy đức, dung nghi của Thế Tôn rực rỡ như mặt trời. Các vị sa môn đệ tử của Thế Tôn thì trầm mặt và sáng chói. Chúng con có niềm tin vào Thế Tôn, vào giáo pháp của Thế Tôn, vào các đệ tử của Thế Tôn, xin cho chúng con ở đây được quy y với Thế Tôn, với giáo pháp và các vị thánh đệ tử này. Bạch Thế Tôn, dân chúng ở Beneres đây tin vào dòng sông Hằng linh thiêng, các vị Bà La Môn dạy rằng ai thường tắm ở sông Hằng sẽ gội sạch các tội lỗi và sẽ sinh lên cõi trời hoặc không còn tái sinh nữa. Xin Thế Tôn dạy cho chúng con biết như thế nào là đúng ạ?
Thế
Tôn giải thích tất cả các dòng sông đều trôi chảy, cũng như tất cả các sự vật trên thế gian đều vô thường, hãy nhìn dòng sông để thấy như thế. Ai được tắm trong dòng sông Chánh Pháp sẽ được giải thoát khỏi tái sinh.

Sau thời Pháp, Phật và các tỳ kheo ra về. Mọi người đều đứng dạt ra hai phía từ trong nhà ra đến ngoài cổng. Người nhà tôn giả Yasa và mọi người đi theo Phật và chư Tăng một chút rồi quay lại nhưng có bốn thanh niên vẫn đi theo mãi. Tôn giả Yasa nói với bốn thanh niên có thể quay về được rồi, nhưng một thanh niên đáp vì là bạn thân của tôn giả Yasa, đã cùng với tôn giả học hành, làm việc, vui thú.

Nay tôn giả đã xuất gia, tìm thấy Chánh Pháp, đã tìm thấy an lạc và bốn thanh niên cũng muốn như vậy nên xin được theo tôn giả Yasa. Tôn giả Yasa đưa mắt nhìn Phật, Phật khẽ gật đầu. Rồi Phật và các vị tỳ kheo tiếp tục đi về khu chòi còn ngài Yasa đứng lại nói chuyện với bốn người bạn: một vị giác ngộ như Thế Tôn rất lâu mới xuất hiện giữa thế gian một lần. Ngài là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, là bậc Thầy của cả cõi trời và cõi người, ngài là bậc Vô Thượng không ai có thể cao cả hơn được nữa. Là Đấng trí tuệ và đạo đức viên mãn, là Đấng hiểu biết tất cả thế gian Pháp Giới, là Đấng xứng đáng để chúng sinh cúng dường, là Đấng điều phục hóa độ vĩ đại nhất. Bất cứ chúng sinh nào có duyên phúc gặp Thế Tôn và khởi lòng tôn kính thì đã được thiện nghiệp vô biên. Dù tôi có nói đến khi cõi đất hủy hoại cũng không thể ca ngợi hết được sự cao cả của Thế Tôn. Dù tôi có đem hết thân mạng, trong trăm nghìn ức kiếp để cúng dường Thế Tôn cũng không thỏa lòng. Các bạn hãy một lòng quy hướng Thế Tôn để tìm sự giác ngộ, thế gian vốn vô thường chẳng bền lâu.
Bốn thanh niên bất ngờ vì chỉ không gặp tôn giả Yasa ba ngày mà tôn giả đã hoàn toàn thành một người khác hẳn, trầm lặng và tỏa sáng, họ tin tôn giả đã tìm được an lạc và chân lý tối thượng nơi
Chánh Pháp của Thế Tôn. Rồi năm người cùng đi về khu chòi, cả bốn người cùng quỳ xuống trước Phật: “Chúng con là Gavampati, Vimala, Subahu, Punnaji, là bạn thân thiết của tôn giả Yasa, nay chúng con có lòng tin vào Thế Tôn, có lòng tin vào Chánh Pháp, có lòng tin vào chư Tăng, chúng con xin được xuất gia theo Thế Tôn, từ nay đến vô lượng kiếp chúng con xin trọn lòng quy ngưỡng”.

Đêm xuống, trời lại đổ mưa. Sáng hôm sau, cha của tôn giả Yasa cho người đến sửa sang con đường từ khu chòi vào thành. Trong lúc sửa đường, mọi người bàn tán với nhau: các vị Bà La Môn trong thành Benares bắt đầu phẫn nộ, lên tiếng chỉ trích nhà tôn giả Yasa tại sao bỏ tín ngưỡng Vệ Đà để theo các sa môn đầu trọc. Các vị Bà La Môn nói Benares có dòng sông Hằng linh thiêng có thể giúp chúng sinh giải thoát, cần gì các giọng điệu bậy bạ của các sa môn khất sĩ.
Trong khu rừng, các tỳ kheo cũng đang dọn dẹp lại khu chòi.
Tôn giả Yasa nhờ tôn giả Gavampati nhập định uốn lại con đường dời qua chỗ khác, con đường sẽ bắt ngang qua suối thay vì trùng với dòng suối, phần tôn giả Yasa sẽ làm cây cầu bắt qua dòng suối.
Khi các gia nhân khi sửa đến đoạn đường này đều rất ngạc nhiên, con đường đang làm bỗng dời qua chỗ khác, không còn trùng với con suối nữa, rất dễ đi. Mọi người men theo con đường đến khu chòi Phật đang ở đảnh lễ
, cúng dường vật thực cho Phật và các vị tỳ kheo. Sau đó, mọi người ra về và điều k lạ về con đường lập tức được lan truyền.

Sau khi thọ thực, các vị tỳ kheo ngồi quanh Phật để thỉnh Pháp:

Câu hỏi của các vị tỳ kheo & Lời đáp của Đức Phật:

+ Q: Tôn giả Vappa hỏi Thế Tôn về sự khác nhau giữa các mức thiền định khi Thế Tôn chứng khi còn bé với khi ở với hai vị đạo sư Alara Kalama và Uddaka Ramaputta là như thế nào?

+ A:

Năm mười một tui, một lần theo vua cha dự lễ HĐiền đầu mùa mưa, Thế Tôn ngồi thiền dưới gốc cây và chứng Sơ Thiền. Chính vì chứng được Sơ Thiền nên Thế Tôn dễ chứng được các mức định khi ở với hai bậc đạo sư. Khi ngồi dưới cội cây Assattha trong rừng cạnh làng Uruvela – Thế Tôn chứng nhập tiếp Nhị thiền, Tam thiền, rồi Tứ thiền. Nơi Tứ thiền, Thế Tôn chứng Tam Minh và thành Chánh Đẳng Chánh Giác.
Sơ Thiền: mức thiền đầu tiên khi một hành giả đã trải qua hết Chánh Niệm Tỉnh Giác. Ở mức thiền này khiến hành giả ly dục, ly bất thiện pháp, không còn bị ái dục chi phối, không còn bị tâm xấu ác chi phối. Nếu chết với mức thiền này người đó sẽ sinh lên các cõi trời sắc giới, không còn dâm dục.
– Các mức thiền có được là do tâm luôn an trú nơi thân, cảm giác toàn thân, quán thân vô thường.
– Các mức định có được khi ta không an trú nơi đâu cả, thả tâm buông rộng cả hư không.

+ Q: Tôn giả Mahanama hỏi: khi Thế Tôn thuyết pháp, ban đầu chúng con bừng tỉnh, tâm rỗng rang thanh tịnh, thấy được đạo lý hiện hữu sờ sờ trước mắt khi nhìn mọi vật. Sau mấy ngày nhập thiền định, chúng con chứng rất nhanh quả vị A La Hán, trạng thái bừng tỉnh ban đầu đó là gì ạ?

+ A:

– Trạng thái bừng tỉnh ban đầu đó là quả vị Dự Lưu Tu Đà Hoàn: tâm được rỗng rang, thanh tịnh, tĩnh giác, thấy được một số đạo lý khi nhìn vạn hữu, thấy rõ vạn hữu vô thường nhưng chưa nhập được sơ thiền.
– Nhưng chỉ trong vài ngày nhập thiền các vị đã chứng luôn tứ quả A La Hán đó là do: túc duyên đời trước, trong các kiếp xưa thời Đức Phật trong quá khứ, các vị đã gieo trồng căn lành đầy đủ, đã từng cung kính c
úng dường, thừa sự, tinh tấn tu tập. Bây giờ nhân duyên đã đủ, khi gặp Như Lai các ông nhanh chóng chứng đạo giải thoát.

+ Q: Bhadiya hỏi Thế Tôn: chúng con chứng rất nhanh trong khi Thế Tôn phước đức vô lượng như thế mà phải trải qua nhiều năm khổ hạnh, tại sao lại như thế ạ?

+ A: Mọi chuyện đều có nhân duyên. Như Lai phải trải qua như thế, đến thời gian như thế mới hợp lý. Nếu sự tình diễn ra khác đi lại phát sinh nhiều bất tiện. Nhưng một khi Như Lai đã chứng đạo rồi thì các đệ tử của Như Lai sẽ nhanh chóng chứng đạo theo.

+ Q: Asaji hỏi: Thế Tôn, các quả vị thánh khác với các mức thiền định như thế nào ạ?

+ A:

– Từng mức thiền định được đánh giá trên sự yên tĩnh của nội tâm, càng lắng tâm bao nhiêu thì càng chứng được thiền định sâu bấy nhiêu.
Thiền định cũng giúp hành giả tăng cường đạo đức và chứng ngộ quả vị thánh. Tuy nhiên từng mức thiền định chưa phải là quả vị thánh nên có thể bị thoát thất. Có thể bị ác pháp trong tâm xuất hiện rồi đọa lạc. Còn quả vị thánh đã chứng rồi thì tâm ổn định đi tới mãi.
– Người chứng quả Dự Lưu vẫn chưa bằng người chứng sơ thiền, chỉ có một phần Chánh Niệm Tỉnh Giác, còn phải tái sinh nhiều lần, còn phải trả nhiều nghiệp chướng trong quá khứ. Nhưng người này nhất định một lúc nào đó phải chứng A La Hán.
– Người chứng nhị quả Tu Đà Hàm cũng vẫn chưa bằng người chứng sơ thiền, chỉ đạt được gần hết Chánh Niệm Tỉnh Giác, còn phải tái sinh một lần về cõi người.
– Người chứng tam quả A Na Hàm thì có thể nhập được từ sơ thiền đến
Tam thiền một cách tự tại, không còn tái sinh nữa, có thể an trú cõi sắc giới cho đến khi chứng A La Hán tại cõi này.
– Riêng người chứng A La Hán thì có thể nhập đến tứ thiền một cách tự tại và phải có đủ Tam Minh Lục Thông.

Tôn giả Yasa thật là đệ nhất tán thán Thế Tôn khi ngài thốt lên: “Công đức của Thế Tôn thật là vô lượng vô biên, đã cho chúng con sự quý giá tột cùng của quả vị A La Hán, chúng con có đốt thân này đến vô lượng kiếp để cúng dường vẫn không đền đáp được ân nghĩa vô hạn này.

Các Bà La Môn đang nổi giận vì nhiều người dân ở Benares tò mò tìm hiểu xem vị sa môn đó là ai mà mê hoặc được công tử Yasa, người dân bắt đầu kéo nhau vào rừng thăm hỏi, hỏi han đạo lý với các sa môn. Một ngày nọ, người dân mang vật thực kéo nhau vào rừng vấn an sức khỏe Đức Phật, xin được cúng dường thực phẩm đến các vị tỳ kheo, được thưa hỏi đạo lý.

Sau đó, Đức Phật ban cho bài pháp: Bốn Pháp Thượng Nhân mà người cư sĩ sống ở đời nên ghi nhớ và thực hành đó là: Cung kính những bậc đáng kính, giúp đỡ những người đáng giúp đỡ, ca ngợi những người đáng ca ngợi, hành trì những pháp đáng hành trì.

Thế nào là cung kính những bậc đáng cung kính: Khi một cư sĩ có đức hạnh và trí tuệ, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, thúc liễm thân tâm với chánh pháp và thiền định. Vị này chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền rồi tứ thiền. Khi vị này hướng tâm về đời sống quá khứ thấy rõ vô lượng kiếp của mình. Mỗi kiếp có tên gì, cha mẹ ra sao, làm hạnh nghiệp gì, báo ứng thế nào và vị này chứng được Túc Mạng Minh. Rồi vị này quan sát dự lưu chuyển của chúng sinh trong tam giới, thấy rõ chúng sinh đang trôi lăn trong các cõi giới tùy theo hạnh nghiệp của mình. Rồi vị ấy quan sát thấy rõ thế gian là khổ, thấy rõ nguyên nhân của khổ, thấy rõ niết bàn diệt khổ, và thấy rõ Bát Chánh Đạo đưa đến niết bàn, và vị ấy chứng được Lậu Tận Minh. Người ấy thấy rõ như người đứng trên lầu cao nhìn mọi người qua lại ở ngã tư đường, và vị ấy chứng được Thiên Nhãn Minh trở thành một vị A La Hán giải thoát giác ngộ hoàn toàn. Một vị A La Hán như thế đáng được chúng sinh cúng dường thừa sự. Ai cung kính cúng dường một vị A La Hán như thế là biết cung kính những bậc đáng cung kính, sẽ thành tựu vô lượng phước lành cho đời này và những đời sau.


Thế nào là giúp đỡ những người đáng giúp đỡ: Một kẻ bị đau khổ vì thiếu đói, vì bệnh tật, vì tai ách, đau khổ gần như chết, miệng kêu than la khóc. Rồi một cư sĩ gia chủ vì lòng từ mẫn đến với kẻ ấy, giúp đỡ, bố thí, khuyên bảo, cho ăn, cho mặc, cho thuốc thang, khiến cho kẻ ấy được an ủi, an lạc, dừng sự than khóc. Sau đó vị cư sĩ gia chủ khuyên bảo kẻ bất hạnh kia phải khởi được tâm thiện, phải làm những thiện nghiệp để chuyển nghiệp.


Thế nào là ca ngợi những người đáng được ca ngợi: Khi người cư sĩ gia chủ trông thấy ai làm được những hạnh lành thì ca ngợi cho nhiều người để mọi người tùy hỉ, bắt chước. Khiến cho điều thiện ấy lan truyền như gió mát lan truyền trong mùa mưa.


Thế nào là hành trì những Pháp đáng hành trì: Khi một cư sĩ gia chủ gặp được bậc chân nhân, lắng nghe bậc chân nhân, ghi nhớ những lời dạy của bậc chân nhân, tin hiểu nghiệp báo, làm gì cũng xét đến quả báo, không dám làm khổ người, không dám làm hại người, chỉ muốn làm lợi người, chỉ muốn đem an vui cho người. Vị cư sĩ ấy biết dành thời gian tọa thiền để điều phục tâm ý, nhiếp tâm với Chánh Niệm, và có thể thành tựu những quả vị thánh nhân ngay ở trên đời.


Mọi người sau khi nghe pháp thưa: “Bạch ngài đại sa môn, cả đời chúng con có bao giờ nghe được những giáo pháp tốt lành như thế này đâu, Hôm nay ngài đã mở mắt cho chúng con để chúng con thấy, ngài đã thắp lại ánh sáng trong ngôi nhà tối, đã dựng lại chân lý đã bị quăng ngã. Chúng con xin quy y ngài, quy y giáo pháp của ngài, quy y các đệ tử của ngài cho đến mạng chung vẫn trọn lòng quy ngưỡng”. Sau đó tất cả mọi người đều quỳ đảnh lễ Phật. Chợt có năm mươi thanh niên ch
p tay cúi xin Thế Tôn nhận làm đệ tử của Người. tôn giả Yasa bạch với Thế Tôn những thanh niên này đã từ lâu có chánh hạnh, có trực hạnh, xứng đáng để Thế Tôn nhận làm đệ tử. Thế Tôn nhận lời và nhờ tôn giả Kondanna sắp xếp cho các thanh niên xuất gia.

Trong kinh thành Kapilavattu, Ngài Nanda báo với Vua Tịnh Phạn về tình hình của Thế Tôn ở thành Benares, Vua Tịnh Phạn truyền lệnh cho các thám tử đang đóng vai gia chủ giàu có ở Benares đến vừa mua chuộc vừa hăm dọa các giáo sĩ Bà La Môn, không cho họ gây điều gì tổn hại với Thế Tôn.
Vua Tịnh Phạn nói lại tình hình của Thế Tôn với Hoàng Hậu Pajapati và Công nương Yashodara. Cả ba người đều mong gặp lại Thế Tôn để nghe Thế tôn giảng dạy giáo lý sau bảy năm xuất gia tu hành nên Vua đã cho người đến mời Thế Tôn về thăm lại hoàng cung.

Hoàng Hậu hỏi thăm về Rahula, công nương Yashodara nói Rahula đã bắt đầu học võ, nhưng Rahula nghịch quá, chọc phá các vị giáo thọ sư đến phát phiền. Rahula còn suy nghĩ ra các thế võ lạ để tấn công lại các vị giáo thọ sư làm các vị bất ngờ. Còn những cung nữ nào sơ xuất trong công việc thì Rahula giấu đồ hù dọa làm ai cũng phát hoảng. Có lần, Rahula còn giấu mất cây gươm của thị vệ làm chú hoảng hốt vì mất gươm sẽ bị giam vào ngục.

Sáng sớm, tôn giả Gavampati dẫn hơn ba mươi vị tỳ kheo vào làng khất thực. Vì ngài biết lát nữa sẽ có các cư sĩ gia chủ thành Benares mang vật thực đến cúng dường nhng vật thực đó chỉ đủ cho ba mươi người với Thế Tôn dùng đủ. Ngài Gavampati biết chính xác chuyện xảy ra đến từng chi tiết đến vậy vì đã chứng quả vị A La Hán. Quả thật, một số cư sĩ mang vật thực đến cúng dường. Sau khi Phật và các vị tỳ kheo thọ thực xong, một già chủ quỳ lên thỉnh pháp:

Câu hỏi của gia chủ & Lời đáp của Đức Phật:

+ Q: Vì rất yêu thương người vợ của mình, nên gia chủ muốn đời này và đời sau được tiếp tục gặp lại thì phải làm những hạnh gì?

+ A:

– Nếu gia chủ và vợ đời này giống nhau về Tín, giống nhau về Giới, giống nhau về Bố Thí, giống nhau về Trí Tuệ thì đời sau sẽ gặp nhau:
Giống nhau về tín: có nghĩa là hai vợ chồng đặt niềm tin nơi giáo pháp như nhau, có sự hiểu biết về giáo pháp giống nhau.
Giống nhau về giới: có nghĩa là hai vợ chồng giữ gìn đạo đức giới hạnh cư xử giống nhau.
Giống nhau về trí tuệ: đó là hai vợ chồng có tài năng nhận thức giống nhau.
Giống nhau về bố thí: tức là hai vợ chồng cùng bố thí, giúp đỡ làm phước giống nhau.
Bốn điều giống nhau thì duyên nhau còn gắng bó, khiến cho đời sau còn gặp lại.

+ Q: Những bằng hữu của gia chủ đều là những người giàu có, buôn bán thịnh vượng, nhà cửa cao rộng, có phải là do làm những nghiệp giống nhau ở đời trước hay chăng?

+ A: Tuy giống nhau về quả báo đời này, nhưng lại khác nhau về nghiệp nhân đời trước. Ông là người đã từng cúng dường sáu vị sa môn tu hành chân chính nên này được phước báo nhà cửa rộng rãi. Người bạn Danti ngồi sau lưng ông đời trước hiến nhà và đất để làm bệnh xá, chăm sóc người bệnh nghèo nên đời này nhà cửa rộng rãi. Người bạn Bandhu ngồi bên phải của ông đời trước tiếp đãi mọi người tử tế ngay trong ngôi nhà của mình nên đời này có nhà cửa rộng rãi. Các ông tuy khác nhau về nghiệp nhân đời xưa nhưng cùng có quả báo giống nhau.

+ Q: Gia chủ rất yêu thương đứa con gái, nhưng từ nhỏ đã bị bệnh bẩm sinh không nói được. Xin Thế Tôn cho biết nghiệp nhân của cháu là gì và làm sao để cháu thoát được nghiệp lực này.

+ A: Này thiện nam, đứa con gái của ông ngày xưa là một gia chủ giàu có hay giúp đỡ vợ chồng ông. Nhưng lại có thói quen khinh người, không muốn trả lời các câu hỏi của người khác, không quan tâm đến sự trình bày của người khác, và đã có lần cấm gia nhân không được nói gì. Nên đời này cháu sinh ra bị bệnh câm nhưng bù lại được vợ chồng ông rất yêu thương. Hai vợ chồng ông phải bố thí cúng dường để giúp đỡ mọi người làm phúc thay cho cháu, hai vợ chồng ông phải hiểu biết giáo pháp và phải thường xuyên nói cho cháu nghe để cháu chuyển tâm, được như vậy ba năm sau cháu sẽ bắt đầu nói được.

Sau đó, gia chủ thưa với Thế Tôn: con chưa từng thấy ai trong loài người có dung sắc rực rỡ như Thế Tôn, con nhìn Thế Tôn dung nghi thù thắng giống như một thiên tử hiện hữu giữa loài người, giống như viên ngọc chói sáng giữa đêm đen, giống như ngọn núi châu báu lấp lánh vời vi khắp cả trời đất. Bạch Thế Tôn, ngay giây phút đầu tiên được chiêm ngưỡng Thế Tôn tại nhà của thân phụ tôn giả Yasa, con nhận ra rằng đây là vị thánh muôn nghìn năm mới có một lần, mấy hôm nay con được nghe Thế Tôn thuyết pháp, những giáo pháp tốt lành từ ban đầu, tốt lành ở đoạn giữa, tốt lành ở cả phần sau, lòng con như được tắm dưới ánh nắng mặt trời, con xin được quy y với Thế Tôn, quy y với giáo pháp của Thế Tôn, quy y với chúng đệ tử của Thế Tôn, từ nay cho đến mạng chung con trọn lòng quy ngưỡng”. Sau đó, mọi người ra về một vị tỳ kheo bừng sáng đến trình với Phật năm mươi vị tỳ kheo xuất gia sau này đều đã chứng A La Hán.

Bình minh lên, mọi người lũ lượt kéo nhau vào rừng Nai. Sau khi thọ thực xong, mọi người quây quần nghe Phật thuyết pháp. Thuở xưa, Benares là một kinh đô hùng mạnh, trị vì bởi Vua Brahmadatta uy quyền, lẫm liệt bao trùm cả giải đất từ núi tuyết phía bắc về đến đại dương ở phía nam. Sau khi cai trị đất nước thanh bình, Vua khởi tâm muốn tìm con đường tu hành giác ngộ. Vua nghe danh một ẩn sĩ trên núi tuyết đạo hạnh cao siêu nên đã gửi các đoàn sứ giả đến thỉnh đạo sĩ về cung dạy đạo. Sau khi hiểu đạo, Vua đã truyền ngôi cho Thái Tử rồi cùng theo đạo sĩ về núi tuyết tu hành, chứng thiền quán. Sau khi chết Vua đi theo nghiệp của mình, Thái Tử ở lại trị vì vương quốc của mình, rồi cũng tìm đường tu hành như Vua cha. Lúc đó, Vua Brahmadatta chính là Thế Tôn, còn các vị quan tướng cũng chính là những tỳ kheo đang ở đây với Người.

Một ngày cuối mùa mưa, Đức Phật nói với các tỳ kheo, các vị đã chứng A La Hán được giải thoát hoàn toàn, các vị không nên ở đây trong khi khắp nơi còn nhiều chúng sinh si mê tăm tối, hãy cất bước ra đi, hãy đi khắp nơi để truyền bá đạo lý giác ngộ này cho chúng sinh, hãy đi khắp mọi hướng và đừng đi hai người chung một đường. Hãy lên đường vì lợi ích của Chư Thiên và loài người.

Tôn giả Konnanda xin Đức Phật cho vài tỳ kheo ở lại để hầu hạ. Nhưng Đức Phật nói có thể tự lo cho mình vào lúc này, Đức Phật sẽ đi về Uruvela hóa độ cho những tu sĩ trước kia theo hai đạo sĩ Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Sau đó, Đức Phật sẽ đi về Vương Xá thành theo lời mời của Vua Bimbisara, các tỳ kheo chia nhau đi mọi nơi và sẽ gặp lại Đức Phật khi thích hợp. Và lần lượt từng vị đảnh lễ Phật rồi ra đi. Có vị đi bộ, có vị biến mất tại chỗ, có vị dùng thần thông bay đi, có vị đi quanh Phật ba vòng rồi mới ra đi. Sau khi các vị đều ra đi, Phật cũng ôm bình bát đi ra khỏi khu rừng.


TẬP 12: TRỞ LẠI VƯƠNG XÁ

Đức Phật một mình vượt sông Hằng để đến Vương Xá thành Rajagaha (Vương xá). Người vào thành trước khi đến bến đò. Người vừa cầm bình bát, vừa bước đi uy nghi đĩnh đạc khiến cho người dân xung quanh chăm chú ngắm nhìn. Có người cúi chào cung kính, có người trầm trồ khen ngợi. Khi đến bến đò, chợt có một người thỉnh Phật lên đò. Hai người chèo đò ra sức chèo để đưa Đức Phật cùng những hành khách khác qua sông, bỗng nhiên chiếc đò nhẹ nhàng lướt đi làm hai người chèo đò kinh ngạc. Khi đò cập bến, hai người chèo đò không ngừng lạy Đức Phật. Đức Phật thong thả vào một khu chợ, có người đến cúng dường vật thực, Phật đi ra khỏi khu làng, ngồi dưới một tán cây thọ thực.

Trong Hoàng cung Kapilavattu, Ngài NANDA (Nan Đà) và Công Nương Yashodara luôn dõi theo mọi hành động của Đức Phật. Theo tin tức có được, Đức Phật chia các đệ tử đi khắp nơi để tuyên giảng đạo lý, một đệ tử ở lại giữ khu rừng Nai, phật tử đến đây cúng dường, xây dựng một Tinh xá khang trang, tiện nghi hơn khi Phật trở về. Trước khi xuất gia, Đức Phật chỉ huy cả một hệ thống thám tử quyền lực trùm hết các nước. Nhưng khi Ngài thành Phật thì lại không cần lập nên một tôn giáo có hệ thống tổ chức chặt chẽ, không dùng hình phạt, không tưởng thưởng như các tổ chức khác, hoàn toàn tin tưởng vào sự tự giác của các đệ tử mình, điều này làm cho Quốc Vương và Công Nương Yashodara (Da Du Đà La) lấy làm khó hiểu.

Trên đường trở về thành Vương Xá, đêm xuống, Đức Phật đến một gốc cây to và trải tọa cụ ra ngồi Thiền. Cùng lúc đó, bốn vị Chư Thiên tử hiện ra cúng dường sàng tọa cho Đức Phật nghỉ ngơi (giường bằng gỗ chiên đàn, mái che bằng những tấm vải trời rất đẹp). Trong đó, có vị Chư Thiên hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn, một thượng nhân hành trì pháp gì để được bất thoái chuyển trên đạo lộ dẫn đến Vô Thượng BĐề?”

Đức Phật đáp: “Khi một thượng nhân muốn bất thoái chuyển trên đạo lộ dẫn đến vô thượng bồ đề hành trì Pháp Không. Thế nào là Pháp Không? Tức Thượng nhân đó phải làm tất cả những việc thiện, làm tất cả những việc có lợi cho chúng sinh, giúp chúng sinh có vật thực, có ý phục, có thuốc men, có chánh mạng nghề nghiệp, giúp chúng sanh có chánh pháp để hành trì. Thượng nhân đó làm tất cả những thiện trải qua nhiều số kiếp, làm lợi ích chúng sinh không tính giới hạn, nhưng xem tất cả là không để hướng về vô thượng bồ đề”.

Các vị Thiên tử sau khi nghe xong hoan hỷ, đảnh lễ Phật rồi biến mất. Sau đó, Đức Phật ngồi thiền đến khuya rồi lên sàn tọa nằm nghỉ. Nằm nghỉ một chút, Đức Phật lại ngồi thiền đến sáng. Người tiếp tục đi về phía đông.
Khi Đức Phật ngồi dưới gốc cây thọ thực xong, có gia chủ DHULI đến đảnh lễ Đức Phật mà thưa rằng:
“Kính thưa Ngài Sa môn, xin cho chúng con biết Ngài từ đâu đến, danh tánh là gì, Ngài thọ trì giáo pháp của ai, và Ngài giảng đạo lý gì ạ?”
Đức Phật ôn tồn đáp: “Này gia chủ DHULI, Như Lai không có ai là Thầy, Như Lai xuất thân từ dòng dõi Gotama ở đất nước Sakiya, Như Lai giảng dạy đạo lý đưa đến diệt khổ, giác ngộ khỏi vô minh, giải thoát khỏi luân hồi sinh tử”.

Đức Phật tiếp tục thuyết giảng về ĐẠO LÝ DIỆT KHỔ: “Mỗi chúng sinh đều bị chi phối bởi NGHIỆP DUYÊN. Do nghiệp đời trước mà chúng sinh có thể sinh về nơi cao sang hay chỗ nghèo khó. Nghiệp cũng chi phối đời sống chúng sinh này suốt đời, khiến cho họ khi thì thành công, khi thì thất bại. Ngay cả dung nghi đẹp xấu của một người cũng bị nghiệp chi phối. Nếu một người đời trước sống với ba nghiệp thiện: thân làm thiện, miệng nói lời thiện, ý nghĩ điều thiện thì quả báo tốt lành sẽ đến với họ, thậm chí có thể tái sinh cộng trú với Chư Thiên. Nếu một người đời trước sống với ba nghiệp bất thiện thì đời này họ chịu nhiều quả báo đau khổ thậm chí bị đọa vào ba đường ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
Con người ai cũng phải ăn để sống, nên ai cũng phải biết ơn các vị nông phu. Nếu ai sống trong cao sang quyền quý mà không biết đến việc hái trồng thì sẽ bị tái sinh vào gia đình nông dân để tự mình làm ra thực phẩm cho đời để trả ơn đời. Nếu ai sống biết giúp đỡ những người khó khăn, tiết kiệm của đất trời thì sẽ được mùa màng tươi tốt, được nhiều quả báo lành ở đời sau. Những ai sống bỏn xẻn, phung phí của trời đất thì sẽ chịu mùa màng thất bại”.

Sau khi nghe xong bài pháp, gia chủ DHULI vô cùng hoan hỷ tán thán, xin quy y, trọn lòng tôn kính Tam Bảo.

Một buổi sáng mùa đông ở một xóm nhỏ. Có hai đứa bé chăn bò thuê đang co ro vì lạnh. Chúng ghé vào một căn chòi xin que củi lửa rồi ra cánh đồng bứt cỏ khô để nhen lửa sưởi ấm. Sau đó chúng chạy đi bắt bẫy chim về nướng ăn. Đang mi mê ăn thì lửa cháy lan ra cánh đồng, bốc cao lên vây quanh hai đứa trẻ. Trong đám lửa cháy đó, Đức Phật xuất hiện. Ngài đến nhìn hai đứa trẻ một cách trìu mến. Hai đứa trẻ nhìn thấy Đức Phật thản thốt van xin: “Xin ông thần cứu đàn bò của con, lửa sẽ thiêu cháy mất bò”.
Đức Phật đưa bàn tay về ph
ía cánh đồng lửa, lập tức lửa tắt lịm.

Hai đứa trẻ vui mừng cảm tạ Đức Phật rối rít và kể lại sự việc này cho người dân trong làng nghe. Mọi người trong làng vô cùng cảm kích.

Đức Phật thuyết giảng về NHÂN QUẢ cho người dân trong làng nghe. Ngài nói: “Mọi việc trên đời đều có nhân quả báo ứng, trong đời trước chúng ta đã làm nghiệp thiện ác ra sao thì đời này chính chúng ta sẽ nhận chịu quả báo khổ vui tương ứng như thế. Nếu đời trước ta sát sinh lấy của không cho tà hạnh, nói dối hay ác ngữ, chìm sâu trong men rượu thì đời này đau khổ vô cùng. Nếu đời trước ta có chánh hạnh, hay cứu người, biết bố thí, không xâm phạm vợ người, nói lời chánh trực, đúng pháp, tránh xa rượu men, thì đời này ta hạnh phúc giàu sang. Vì thế, mọi người hãy nhớ làm điều thiện lành suốt đời”.
Sau khi nghe xong, dân làng hoan hỷ thỉnh Đức Phật ở lại để mọi người cúng dường vật thực cho Ngài nhưng Đức Phật từ chối vì Ngài có việc phải đi về URUVELA.
Đức Phật lại tiếp tục đi….

Tại một ngôi làng nọ đang diễn ra lễ tế đàn, người dân ở đây nghĩ rằng cần cúng tế trời đất thì sẽ được trúng mùa. Ba mươi con dê đực, dê con đã được đưa đến tế lễ, một Giáo sĩ cầm lửa đốt đuốc và đọc thần chú, khi đốt lửa thì thì đống củi lại không cháy. Mọi người đang xôn xao thì Đức Phật xuất hiện. Sau một hồi tranh luận. Đức Phật đề nghị cởi trói cho những con dê bị trói thì củi sẽ tự bốc cháy. Còn nếu củi không cháy thì các vị Bà La Môn đề nghị Đức Phật đền bù ba mươi con dê và làm nô lệ cho họ ba năm. Sau khi những con dê được thả, đống củi tự nhiên bốc cháy. Mọi người ngạc nhiên reo hò và xin được nghe giáo pháp của Đức Phật.

Đức Phật tiếp tục giảng về NHÂN QUẢ cho mọi người nghe. Đức Phật nói: “Thần linh không đẹp lòng vì mọi người sát sinh cúng tế mà Chư Thiên chỉ đẹp lòng vì mọi người sống thuần thục trong chánh pháp. Vì thế hãy sống theo chánh pháp, không làm các việc ác, chỉ làm các việc lành, giữ tâm hồn thanh tịnh, và mọi người sẽ được no ấm. Nếu các người giữ được ba nghiệp thuần thiện, ý nghĩ đều tốt, miệng nói điều tốt, thân làm điều tốt thì khi mạng chung các người có thể sinh về cộng trú với Chư Thiên. Ngược lại nếu các người huân tập ba nghiệp ác thuần thục ý nghĩ điều ác, miệng nói lời ác, thân làm điều ác thì khi mạng chung các người sẽ phải đọa vào ba ác đạo, là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Này các dân làng, các thần linh không đẹp lòng vì các người sát sinh cúng tế. Chư Thiên không đẹp lòng vì các người cắt cổ các con dê trong đau đớn kêu la.
Dân làng sau khi nghe xong trọn lòng quy ngưỡng, cúng dường vật thực cho Phật. Đức Phật lại tiếp tục đi!

Tại thị trấn GaYa, có một thanh niên tên PINANA chưa lập gia đình cùng với hai mươi chín người bạn đã có vợ đang có mặt tại một tiệc rượu, họ luôn nghĩ mình giàu có, hạnh phúc nên thỏa thích say mê hưởng thụ tuy nhiên họ lại có thiện căn, hiểu rằng đời người tạm bợ, kính trọng các bậc sinh thành, giúp đỡ người xung quanh, được mọi người yêu mến, luôn lo sợ sự ích kỷ và tội lỗi của mình.

Khi mọi người đều say khướt, có một kỹ nữ lén lấy trang sức của các thanh niên rồi bỏ trốn, bị vấp phải một thanh niên niên khiến anh này choàng tỉnh, ba mươi thanh niên cùng đuổi theo cô kỹ nữ và gặp Đức Phật đã ngồi thiền trong rừng từ khi nào.

Khi hỏi Phật về cô kỹ nữ, Đức Phật trả lời rằng: “Việc tìm cô gái là quan trọng hay tìm chính mình quan trọng hơn?”
Các thanh niên trả lời: “Thưa ngài Sa Môn, mọi thứ trên đời đều vô thường tạm bợ, nên tìm chính mình quan trọng nhất ạ”.
Đức Phật giảng cho các thanh niên ở GaYa về ý nghĩa của việc: “
TÌM CHÍNH MÌNH”.

Đức Phật nói: “Một thanh niên gia chủ sống đầy đủ với ngũ dục của thế gian, nhưng biết khao khát đi tìm một đời sống cao thượng. Người này gặp một đạo sư với tiếng lành vang xa. Đây là bậc đạo sư có tuệ giác và công đức vô lượng. Đây là bậc đạo sư đã giác ngộ và giải thoát khỏi ba cõi thế gian. Đây là bậc đạo sư có thể dẫn đường cả cõi trời và cõi người.

Người thanh niên xuất gia, cạo tóc, đắp y, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, theo vị đạo sư học và thực hành giáo pháp.
Người này khép mình trong phạm hạnh, thấu hiểu nghiệp duyên chi phối kiếp sống của chúng sinh đời này và đời sau. Sống không lầm lỗi, không gây tổn hại chúng sinh và tinh tấn thiền định.
Này các thanh niên ở Gaya, người này an trú chánh niệm ngày và đêm, ngồi kiết già như hoa sen dưới gốc cây hay trong nhà hoang.
Người này lần lượt phá trừ năm triền cái là tham, sân, hôn trầm, nghi hoặc, trạo cử.
Người này bắt đầu nhập sơ thiền, thân tâm hỷ lạc còn tầm còn tứ, an trú trong sơ thiền thuần thục.
Người này nhập được nhị thiền, thân tâm hỷ lạc, hết tầm hết tứ, nhất tâm định tĩnh.
An trú thuần thục trong nhị thiền, người này nhập tam thiền, thân tâm an lạc, thoát khỏi các tưởng.
An trú thuần thục trong tam thiền người này nhập tứ thiền, không khổ không lạc, thoát khỏi tâm thức, thanh tịnh hoàn toàn.
Này các thanh niên Gaya, vị này sau khi nhập tứ thiền hướng tâm về những kiếp quá khứ, nhớ lại vô số đời sống đã qua. Nhớ lại mình sinh ở đâu, cha mẹ là ai, tên mình là gì, mình đã tạo những hạnh nghiệp gì, quả báo ra sao, cho đến vô lượng số kiếp. Như vậy vị này chứng được Túc Mạng Minh.
Vị này tiếp tục quan sát tất cả chúng sinh, thấy rằng chúng sinh trôi lăn trong ba cõi sáu đường theo các nghiệp đã tạo. Những ai tạo nghiệp bất thiện sẽ đọa vào ba ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Những ai tạo nghiệp thiện sẽ tái sinh vào cõi trời hoặc cõi người. Vị này quan sát chúng sinh giống như một người ở trên lầu cao tại nhã tưu đường quan sát mọi người qua lại. Do quan sát như thế, vị này chứng được
Thiên Nhãn Minh.
Sau khi chứng được Thiên Nhãn Minh, vị này quan sát khắp cả vũ trụ và nhân sinh để hiểu được Tứ Diệu Đế . Đức Phật tiếp tục giải thích về
TỨ DIỆU ĐẾ:
“Tứ Diệu Đế tức vị ấy thấy rõ sự đau khổ là bản chất của cuộc sống. Vị ấy thấy ái dục là nguyên nhân của đau khổ.
Vị ấy thấy niết bàn là nơi hoàn toàn thoát khổ.
Vị ấy thấy rõ Bát Chánh Đạo là con đường đưa đến niết bàn thoát khổ. Như vậy vị ấy chứng được
Lậu Tận Minh.
Với Tam Minh đã chứng đạt được vị ấy trở thành một vị
A La Hán, viên mãn giải thoát giác ngộ.
Một vị như thế là vị đã tìm được chính mình”.

Sau khi nghe xong, ba mươi thanh niên sững sờ phấn khích. Chợt PINANA lên chắp tay thưa: “Bạch Thế Tôn, con có lòng tin Thế Tôn là bậc giác ngộ, là bậc A La Hán, những gì Thế Tôn vừa thuyết giảng đã khiến con mở con mắt thấy được pháp. Tất cả thế gian đều là sinh diệt vô thường. Từ nay con xin theo Thế tôn để tìm lại chính mình. Xin Thế tôn chấp nhận cho con xuất gia trong pháp và luật của Thế Tôn”.
Đức Phật im lặng nhận lời.
Sau đó, hai mươi chín thanh niên còn lại xin xuất gia theo Đức Phật.
Ba mươi thanh niên bỗng biến thành ba mươi tỳ kheo lúc nào không hay khi đang đi sau lưng Phật.
Các tỳ kheo chia nhau làm những căn lều trại gần bìa rừng để tu tập dưới sự hướng dẫn thiền định của Đức Phật.
Vài ngày sau, hai mươi chín người vợ trẻ kéo nhau vào rừng khóc than chửi mắng vì chồng mình đã trở thành tỳ kheo. Tuy nhiên, ba mươi tỳ kheo vẫn cương quyết theo Đức Phật.

Trong ba mươi tỳ kheo vừa mới xuất gia thì có mười hai người đã chứng quả Tu Đà Hoàn, Phật dặn dò mọi người hãy sống hòa hợp với nhau như nước với sữa, việc gì cũng hỏi ý nhau. Đừng tự ý làm theo riêng mình.
Đức Phật một mình đến một tu viện gần dòng sông Neranjana – Ni liên thiền, độ cho ba anh em Kassapa đang sống ở gần đó.

Tại đây, một số cư sĩ mang vật phẩm đến cúng dường cho đạo sư Uruvela Kassapa (Ca Diếp) để chuẩn bị lễ tế trời vào bảy ngày nữa. Đạo sư phải tịnh thiền để chuẩn bị cho lễ tế trời sắp đến và mời mọi người cùng thân quyến ở lại để dự lễ nên chỗ ở kín hết.

Đến chiều, Đức Phật ôm bình bát đi thẳng đến chòi lá của đạo sư Uruvela Kassapa xin nhờ một chỗ ngủ qua đêm. Hiện tu viện đã kín chỗ và chỉ còn một căn nhà đất trên đồi. Tuy nhiên căn nhà này có một con rắn hổ mang chúa rất to và hung dữ. Ai đến gần là nó phun nọc đc làm mù mắt ngay. Các cư sĩ ở đây thần phục đạo sư Uruvela Kassapa vì đã điều phục được con rắn này, tuy nhiên không ai vào trong nhà đó ở được.
Sau khi nghe đạo sư Uruvela Kassapa phân trần, Đức Phật đến ở tại căn nhà đất đó dưới sự ngạc nhiên của những tu sĩ ở đây.
Chiều tối xuống dần, quanh căn nhà đất tỏa ra ánh sáng dịu dịu chung quanh làm cho mọi người vừa ngạc nhiên vừa thán phục. Trời vừa sáng, các tu sĩ đã hội tụ đông đảo nhìn về căn nhà đất để thỉnh Đức Phật thọ thực.
Đức Phật cùng thọ thực với đạo sư Uruvela Kassapa, đạo sư Uruvela Kassapa hỏi Đức Phật:
“Thưa tôn giả Sa môn, Ngài từ đâu đến, dòng họ là gì, ai là thầy của tôn giả, đêm qua tôn giả ngủ có an lành không, con rắn thần đó có phản ứng gì không?”

Đức Phật trả lời: “Này đạo sĩ Uruvela Kassapa, Như Lai xuất thân từ dòng họ Gotama của nước Sakya. Không có ai làm thấy của Như Lai cả. Đêm qua Như Lai ngủ rất an lành, con rắn ấy vẫn nằm im trong góc nhà rất ngoan ngoãn”.
Đêm xuống, căn nhà đất bỗng có từng vầng hào quang bay xuống, lát sau lại bay lên sáng rực cả một vùng. Các tu sĩ tò mò ra xem và cùng gọi đạo sĩ Uruvela Kassapa.
Sáng hôm sau, khi ngồi thọ thực cùng Đức Phật, đạo sĩ Uruvela Kassapa hỏi Phật về sự kiện đêm qua.

Đức Phật trả lời: “Này đạo sĩ Uruvela Kassapa, những vầng ánh sáng đó là hào quang của chư thiên của các cõi trời xuống tham vấn Như Lai. Ban đầu là cõi trời Tứ Thiên Vương, sau đó là cõi trời Sakka Đế Thích, và cuối cùng là cõi trời Phạm Thiên”.
Đạo sĩ Uruvela Kassapa tiếp tục hỏi:
“Chư thiên đã hỏi gì và Ngài đã đáp gì ạ?”
Đức Phật trả lời:
“Này đạo sĩ Uruvela Kassapa, Vua Trời Đế thích đã suy giảm phước làm Thiên Chủ, về hỏi Như Lai đạo lý của sự giác ngộ. Như Lai đã giải thích về sự vô thường, vô ngã, khiến Đế thích chứng quả Tu Đà Hoàn và phục hồi phước làm Thiên chủ”.
Đạo sĩ Uruvela Kassapa nghe xong run tay làm rơi chiếc cốc…

Mọi người khẩn trương chuẩn bị cho việc tế lễ, không khí ở đây rất nhộn nhịp, mọi người ở xa lần lượt kéo nhau về dự lễ. Một tu sĩ ở đây chợt nhớ ra rằng Sa môn Gotama lúc trước có theo học với Sư tổ UDDAKA RAMAPUTTA một thời gian ngắn đã nhanh chóng chứng được kết quả bằng với Tổ sư, được Tổ sư mời ở lại để giao đồ chúng nhưng Sa môn GOTAMA đã từ chối và ra đi. Lúc này đạo sĩ Uruvela Kassapa đang nhập thiền độc cư nên không biết chuyện này và khi xuất thất thì Sa môn GOTAMA đã rời khỏi tu viện.
Đạo sĩ Uruvela Kassapa lo sợ Đức Phật sẽ làm cho mọi người trong lễ tế sẽ sao lãng. Tuy nhiên Đức Phật đã rời khỏi tu viện và nhắn lại rằng Người sẽ vắng mặt trong những ngày tế lễ và sẽ trở lại sau khi tế lễ hoàn tất. Ngài cũng nhắn rằng đạo sĩ Uruvela Kassapa nên xây dựng khu nhà vệ sinh riêng cho nam và nữ ở ngoài bìa rừng cho sạch sẽ và dự đoán sẽ có ba nghìn hai trăm lẻ bảy người về dự lễ, đạo sĩ Uruvela Kassapa làm theo lời Đức Phật dặn dò.

Trong buổi tế lễ, đạo sĩ Uruvela Kassapa đứng trên tế đài và đọc thần chú, sau đó đạo sĩ Uruvela Kassapa cầm đuốc châm lửa vào đống củi. Tuy nhiên ông châm hoài mà không cháy. Mọi người hồi hộp lo lắng. đạo sĩ Uruvela Kassapa nghĩ đến sự trợ giúp của Đức Phật, ý nghĩ đó vừa thoáng qua thì lập tức đống lửa bốc cháy. Mọi người thì reo hò, duy chỉ đạo sĩ Uruvela Kassapa sững sờ.

Qua hôm sau, đạo sĩ Uruvela Kassapa mời Đức Phật đến thọ thực cùng, đạo sĩ Uruvela Kassapa nói: “Thưa tôn giả Gotama, tôi có lòng tin tôn giả đã hỗ trợ tế đàn của chúng tôi được viên mãn tốt lành. Tôi xin cảm niệm ân đức của tôn giả và mong tôn giả hãy giúp đỡ chúng tôi nhiều hơn nữa”.
Đức Phật đáp: “Này Uruvela Kassapa, ông chưa phải là A La Hán, cũng chưa biết con đường đưa đến quả vị A La Hán và khi ông lạm nhận mình là A La Hán thì ông bị tổn hại công đức nặng nề. Có con đường đưa đến quả vị A La Hán, đó là Bát Chánh Đạo”.

Mọi người hối hả chuẩn bị lễ đài để Đức Phật thuyết pháp, Đức Phật nói về nhân quả nghiệp báo và Tứ Diệu Đế: “Này các đạo sĩ, hạnh phúc hay an vui của mỗi chúng sinh đều do nghiệp duyên quá khứ. Ai đã từng thực hành các thiện nghiệp với thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp tốt lành sẽ sinh về cõi trời hoặc cõi người. Ai tạo các nghiệp bất thiện với thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp xấu xa sẽ phải đọa vào ba đường ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Này các đạo sĩ, thế gian là đau khổ với tám loại khổ… Này các đạo sĩ, ái dục là nguyên nhân của đau khổ… Này các đạo sĩ, niết bàn tịch tịnh là giải thoát. Này các đạo sĩ, Bát Chánh Đạo là con đường đưa đến giải thoát. Này các đạo sĩ, chấp ngã là sự ngu dốt của chúng sinh, chúng sinh lầm tưởng có một bn ngã nên sống sai lầm, vị kỷ, tham lam, sân hận… Này các đạo sĩ, vô ngã là sự giác ngộ tột cùng cao quý”.

Sau khi Đức Phât giảng xong, đạo sĩ Uruvela Kassapa đáp: “Bạch Thế tôn, nay con đã giác ngộ, con mới lầm hiểu mình đã sai lầm khi tưởng mình là A La Hán”.
Đạo sĩ Uruvela Kassapa và các mọi người xin quy y với Đức Phật.

Sau khi mọi người đều xuống tóc và ném bỏ các vật dụng tế lễ xuống dòng sông Nerannaja, Đức Phật nói GOPURA đến cánh rừng phía đông nơi có ba mươi vị tỳ kheo đang trú ngụ mời các vị đến đây.

Đức Phật dạy các tỳ kheo NGỒI THIỀN. Ngài dạy: “Này các tỳ kheo, hãy ngồi kiết già an trú chánh niệm trước mặt, giữ thân bất động, hãy thực hành quán niệm hơi thở, hơi thở vào ta biết hơi thở vào, hơi thở ra ta biết hơi thở ra. Này các tỳ kheo, thực hành quán niệm hơi thở được nhiều công đức lớn, nhiều lợi ích lớn”

Sau khi nghe Đức Phật dạy về cách ngồi thiền, mọi người đều tinh tấn tu tập thiền định, ba mươi tỳ kheo ở khu rừng cũng đến đây để cùng với mọi người tu tập.
Bỗng một hôm, em ruột của Uruvela Kassapa tên là Nadi Kassapa dẫn ba mươi đệ tử đến xin gặp Uruvela Kassapa. Ông lo lắng vì trông thấy vật dụng tế lễ của Uruvela Kassapa trôi theo sông Ni Liên Thiền nên nghĩ rằng Uruvela Kassapa đã gặp nạn nên đã vội vàng dắt hết đồ chúng về đây ứng cứu. Ông ngạc nhiên vì thấy Uruvela Kassapa cạo bỏ râu tóc như một vị sa môn.
Uruvela Kassapa giải thích cho em mình hiểu rằng: “Này hiền đệ Nadi Kassapa, từ lâu huynh đệ ta tu hành đi tìm sự giác ngộ, huynh đệ ta đã từng theo học với tôn sư UDDAKA RAMAPUTTA. Sau khi tôn sư qua đời, ba huynh đệ ta bắt đầu làm thầy thu nhận đồ chúng và chia ra ở ba tu viện khác nhau gần đây. Trong quá trình tu đã gặp nhiều sai lầm, nghĩ mình là A La Hán nên phước hao tổn rất nhiều, nhờ gặp được Đức Phật nên đã giác ngộ”.
Khi nghe Uruvela Kassapa nói về Phật, một người thầy của cả cõi trời và cõi người, là vị Phật giác ngộ, trí tuệ siêu phàm. Nadi Kassapa muốn được gặp Phật. Uruvela Kassapa đưa Nadi Kassapa gặp Phật và xin được Đức Phật thuyết pháp cho em mình nghe.

Đức Phật thuyết giảng cho mọi người: “Này Nadi Kassapa, có những pháp hành đưa đến nội tâm an lạc, giải thoát, lìa xa những tham dục, sân hận, nghi ngờ, trạo hối và cũng có những pháp hành làm tăng thêm các ác pháp như thế. Này Nadi Kassapa, pháp hành nào làm xa lìa các ác pháp? Đó là khi một hành giả thấy được như thật, hiểu được như thật, quán được như thật sắc này là vô thường, thọ này là vô thường, tưởng này là vô thường, hành này là vô thường, thức này là vô thường.
Này Nadi Kassapa,

SẮC này do duyên tứ đại hợp thành, giòn bở không chắc chắn, sẽ già, sẽ bệnh, sẽ chết, sau khi chết các phần xương thịt nhanh chóng tan hoại thành bụi đất hư vô.
THỌ là những cảm xúc khổ vui biến động bất thường thúc đẩy chúng sinh yêu ghét phiền não không ngừng khiến chúng sinh tạo nghiệp trôi lăn, không thường tại trong luân hồi sinh tử. Những cảm xúc đó mong manh, biến dị, mau thay đổi, chợt đến chợt đi, không phải là bền vững lâu dài.
Này Nadi Kassapa,

TƯỞNG là những ý nghĩ, hình ảnh, âm thanh được biểu hiện bên trong tâm trôi liên tục như một dòng nước, không thường tại, không an trú, không phải là điều nương tựa.
HÀNH là những suy luận sáng tạo quyết định của nội tâm. Điều khiển sự hoạt động của cả thân, khẩu, ý là hang ổ của ngã chấp, biến dị, vô thường, liên tục thay đổi trong từng sát na, không phải là chỗ an trú.
Này Nadi Kassapa,

THỨC là cái biết trôi rất nhanh giống như bất động, nhưng vẫn là biến dị vô thường, không bền vững. Ai có thể thấy rõ như thế, hiểu rõ như thế, quán chiếu rõ như thế sẽ lìa xa các ác pháp, được tự tại, giải thoát sự ràng buộc của sinh tử, thoát khỏi lưới của Mara”.

Ngay giây phút đó, Uruvela Kassapa chứng quả A La Hán, Nadi Kassapa chứng quả Tu Đà Hoàn. Ngay lúc đó, cả Nadi Kassapa và ba mươi đồ chúng của Nadi Kassapa xin được xuất gia theo Đức Phật.
Đêm xuống, Đức Phật dạy các tỳ kheo ngồi thiền. Ban ngày, Đức Phật cùng các tỳ kheo vào làng khất thực. Khi Đức Phật đi vào ngôi làng Uruvela ngày xưa lúc Đức Phật tu hành khổ hạnh sáu năm ở đây. Cả dân làng reo mừng kéo ra đón tiếp, Đức Phật khuyên mọi người siêng năng tu hành theo chánh pháp.
Đến chiều, chợt có một đạo sĩ là em của Nadi Kassapa và Uruvela dẫn theo hai trăm đồ chúng đến đây vì cũng đã nhìn thấy những đồ tế trôi trên sông. Khi ông đến gặp Nadi Kassapa và Uruvela, hai người anh kể về Đức Phật và cùng với một nghìn đồ chúng đến đảnh lễ Phật và cầu sự hóa độ của Đức Phật.

Ngày hôm sau Đức Phật cùng các tỳ kheo trở về vương xá thành. Trên đường đi, Đức Phật thuyết bài kinh ADITTHAPARIYAYA có nghĩa là tất cả đều bốc cháy.

Đức Phật nói: “Này các tỳ kheo, tất cả thế gian đều đang bốc cháy trong ngọn lửa vô thường, từng thân người rồi sẽ già nua, bệnh hoạn và già chết. Những ngôi nhà đẹp đẽ sẽ tàn lụi, những vương quốc to lớn cũng suy vong, những gì chúng sinh đắm luyến rồi cũng tan hoại. Này các tỳ kheo, khi nhìn thấy một ngọn lửa, hãy nhìn thấy cả thế gian đang rực cháy. Này các tỳ kheo, tham sân si là ngọn lửa thiêu rụi tâm hồn của chúng sinh, chúng sinh bị tham, sân, si chi phối mà tạo vô số ác nghiệp để bị ràng buộc mãi trong luân hồi vô tận. Ai có thể dập tắt ngọn lửa tham sân si trong nội tâm mình mới là kẻ chiến thắng đích thực. Vì vậy, khi nhìn thấy một ngọn lửa, hãy nhớ đến nội tâm ta đang bị thiêu đốt bởi tham, sân, si.

Này các tỳ kheo, ngã chấp là ngọn lửa âm ỉ cháy trong tâm khiến chúng sanh si mê chìm đắm không lối thoát. Sắc thân là vô thường và tàn hoại, chúng sinh nghĩ rằng thọ là ta, là của ta, là thuộc về ta, nhưng không phải, cảm thọ chỉ là vô thường biến hoại, chúng sinh nghĩ tưởng là ta, là của ta, là thuộc về ta, nhưng không phải… hành là ta… thức là ta. Vì vậy, khi nhìn thấy một ngọn lửa, hãy hiểu rằng ngọn lửa chấp ngã đang âm ỉ cháy.

Này các tỳ kheo, lửa sẽ bốc lên và nước sẽ chảy xuống, đó là thuộc tính tự nhiên của vạn vật. Chẳng có lửa nào đưa ta lên trời nếu ta không từng làm những thiện nghiệp, cũng chẳng có nước nào đưa ta xuống địa ngục nếu ta không làm các điều ác. Vì vậy hãy tránh xa các điều ác và siêng năng làm các việc lành. Một tỳ kheo phải thấy sự nguy hiểm trong từng lỗi nhỏ nhặt, cũng như phải góp nhặt từng chút điều thiện lành.

Này các tỳ kheo, Thiền định là con đường đưa chúng sinh vượt lên khỏi những lon động thấp hèn của tâm trí, chứ không phải ngắm nhìn ngọn lửa bốc lên mà có thể vượt lên cao được”.

Lúc Đức Phật thuyết pháp, thấp thoáng chư thiên cũng hiện ra nghe pháp. Sau khi kết thúc bài pháp, tất cả các tỳ kheo đều chứng quả từ thấp đến cao. Cả cõi đất rung động vì chưa từng có một khoảnh khắc nào đông người đắc đạo như thế, chư thiên hiện ra giữa hư không tấu nhạc và rải hoa cúng dường tán thán Đức Phật.
Đêm đó, Đức Phật và chư tỳ kheo nghỉ lại trên đồi Sira. Ba ngày sau, đã đến thành Vương xá.


TẬP 13: THƯỢNG THỦ TĂNG ĐOÀN

HD đang tóm tắt bằng hình ảnh ạ.


TẬP 14: VỀ CA-TỲ-LA-VỆ

Một ngày nọ, Kalydayi cùng những người bạn hữu đến trước Đức Phật và xin được xuất gia. Họ được quốc vương Nanda giao cho nhiệm vụ thỉnh cầu Đức Phật về thăm lại Kapilvatthu, quê hương của người.
Một buổi chiều, rất nhiều chư
tăng và cư sĩ kéo nhau đến quây quần ở rừng tre. Kaludayi đến quỳ trước Đức Phật và kể về sự mong nhớ của những người thân yêu Đức Phật. Và cuối cùng, người quyết định sẽ về thăm lại Kapilavatthu vào mùa mưa.
Đêm đến những kẻ lạ mặt kéo nhau đến thăm dò thì bị tôn giả Kaludayi phát hiện. Những người này thuộc các nhóm ngoại đạo hoạt động quanh Vương Xá Thành, họ tức giận tìm mọi cách phá tăng đoàn chỉ vì vua Bimbisara quy y. Nhưng tôn giả Sariputta không dự định sẽ trình báo lên vua Bimbisara bởi cuộc đời này có nhiều thứ không thể theo ý muốn của mình, người gieo nhân nào thì sẽ gặp quả đó.

Trong thành Vương Xá, sau khi tôn giả Sariputta chứng kiến cảnh hai vị tỳ kheo đang sừng sộ với nhau. Theo lời chỉ dạy của Đức Phật, ông gọi các tân tỳ kheo lại chỉ dạy những động tác cử chỉ của một vị tỳ kheo chân chính. Những ngày hôm sau, một số tỳ kheo đến hỏi tôn giả về hóa thân kiếp trước của mình và họ biết được những việc làm xấu xa của mình đã gây ra một quả báo tương tự dành cho chính mình.

Trời sáng, tôn giả Moggalana ngồi nhập định hiện ra hàng nghìn tỳ kheo mang bát vào thành khất thực, trong thành các đạo sĩ ngoại đạo mắng chửi mặc cho các tỳ kheo bình thản đứng nghe. Bỗng nhiên, cả nghìn tỳ kheo nhẹ nhàng cất lên rồi biến mất. Trong sự ngỡ ngàng các gia chủ quay lại trách cứ các đạo sĩ đã phỉ báng nhầm các bậc thánh nhân. Sau đó, dân làng vui mừng ân cần đón tiếp khi gặp các tỳ kheo.

Một ngày nọ, nhiều tỳ kheo lớn tuổi đến và được tôn giả Asajira đón tiếp ân cần. Nhiều tỳ kheo trẻ đến đánh lễ với tôn giả Kondanna (một trong năm người được vua Sudhodana khuyến khích theo hầu hạ Đức Phật). Tôn giả Kondanna mỉm cười kể về ngày Thế Tôn bảy ngày tuổi, người được các Bà La Môn tiên tri sẽ là một vị Phật hoặc là một chuyển luân vương, cả triều đình chưa kịp vui mừng bao lâu thì cùng lúc đó hoàng hậu Maya qua đời khiến cả đất nước Sakiya bao phủ trong nỗi buồn. Và các tỳ kheo vây quanh các tôn giả trưởng lão hỏi thăm chuyện trò không biết chán…

Một buổi sáng đẹp trời, nghe tin Đức Phật chuẩn bị về Kapilavatthu, vua Bimbisara cùng tùy tùng vội đến tinh xá đnh lễ Phật, ông xin cho người của ông gia nhập đoàn để mang các phẩm vật, Đức Phật im lặng nhận lời. Trong khi đó, mọi người trong tinh xá chào hỏi dặn dò nhau ai sẽ đi, ai sẽ ở lại thật nhộn nhịp. Hôm sau trời vừa sáng, Đức Phật đắp y ôm bát dẫn đầu đoàn người rời khỏi Trúc Lâm Tinh Xá. Vua Bimbisara cùng nhiều người đến quỳ bên đường đánh lễ từ biệt Phật. Đoàn người cứ thế ngày qua ngày băng qua con sông, băng qua cánh rừng, sườn đồi. Khi đến sông Hằng rộng mênh mông, Đức Phật dừng lại bảo tôn giả Sariputta hãy nán lại đi chung với đoàn ngựa chở vật phẩm. Trong chớp mắt, Phật cùng chư tăng biến mất ở bờ sông bên này, và hiện ra ở bờ sông bên kia để đỡ vất vả cho những người lái đò.

Trong cánh rừng, một nhóm cướp bàn tán với nhau việc cướp phẩm vật, bỗng tôn giả Yasa chợt hiện ra trước mặt bọn cướp. Ngài bảo chúng hãy tấn công mình, bọn cướp hoảng hốt xong đến đâm chém tôn giả loạn xạ, nhưng không thể chạm vào người ngài. Tôn giả Yasa bắt đầu kể nguyên nhân tại sao nhị ca của chúng bị phỏng nặng khiến bọn cướp lúc này chỉ biết buông gươm quỳ xuống chắp tay.

Một buổi sáng, nghe tin Đức Phật đi khất thực ngoài thành, vua Sudhodana và vua Nanda vội vã ra khỏi thành để mời Phật và chư tăng vào hoàng cung. Trong thành, người dân Kapilavatthu kéo nhau ra đường đón Đức Phật và đoàn tỳ kheo. Đến hoàng cung, Đức Phật ngồi trên bục nói về việc tu tập để chứng ngộ đạo quả vượt khỏi trầm luân khiến vua Suddhodana bừng tỉnh quỳ xuống lạy Phật. Trước khi ra ngoài gặp mọi người Đức Phật có vài lời khuyên nhủ công nương Yashodara khiến người bừng tỉnh.

Sau khi dặn dò Nanda, Đức Phật đi đến căn nhà đất nhỏ gần ba lâu đài. Lát sau, tôn giả Sariputta dắt Rahula vào, tóc đã cạo sạch khiến tất cả hoàng tộc đều ngỡ ngàng, vua Suddhodana tỏ vẻ không vui yêu cầu chỉ nhập nhận xuất gia cho trẻ nhỏ khi được cha mẹ đồng ý và được Đức Phật chấp nhận. Ngoài kia các binh sĩ tất bật dựng một khán đài cao trước sân gần hoàng cung, nhà vua lệnh cho người dân sáng đến nghe thuyết pháp. Hôm sau, mọi người lần lượt kéo đến ngồi chật kín cả quảng trường. Đức Phật và chư tăng nhẹ nhàng tiến vào, tất cả mọi người đồng loạt đứng dậy chấp tay xá chào. Đứng trên sàn lễ đài Đức Phật nói về nghiệp báo, sự tu tập và giác ngộ của chúng sinh khiến mọi người im lặng lắng nghe, giọng nói của người vang lên lồng lộng đến tận những người ở xa nhất vẫn nghe rất rõ. Lát sau, Đức Phật cất lên giữa hư không, hào quang từ thân chiếu sáng rạng ngời, người hiện thần thông một thân hiện ra nhiều thân hiện ra trước mặt từng người để an ủi, khuyên bảo. Rồi ngài lại hiệp nhất lại thành một vị Phật tiếp tục thuyết pháp. Mọi người trong hoàng tộc, kể cả cư dân, nhiều người chứng được sơ quả, ai nấy đề cảm động reo lên vui mừng.

Mấy hôm sau, hoàng cung nhộn nhịp chuẩn bị lễ cưới cho vua Nanda, ở ngoài kia đoàn người trang trọng gõ trống rước cô dâu vào điện, cô dâu là một người cực kỳ xinh đẹp khiến ai nấy cũng đều trầm trồ. Đức Phật cũng đến tham dự hôn lễ khiến vua Nanda mừng rỡ chạy ra nghênh tiếp. Khi buổi lễ sắp xong, Đức Phật bỗng đứng dậy rời khỏi cung điện để về căn nhà nhỏ, vua Nanda được Phật đưa cho chiếc bát không biết làm như thế nào đành phải im lặng đi theo. Trong căn nhà nhỏ Đức Phật gọi tôn giả Sariputta và các tỳ kheo xuống tóc cho vua Nanda và bốn vị hoàng tử xứ Mallas khiến vua chết lặng nhưng không dám từ chối vì cực kỳ kính trọng Phật. Tin báo về cung điện ai nấy cũng đều sửng sốt chỉ có vua Sudhodana là ngồi yên bình thản, ông đã nhận ra duyên số của vua Nanda và quyết định xuất gia trong pháp và luật của Thế Tôn. Trước khi xuất gia, vua Sudhodana truyền ngôi lại cho Mahanama, dặn dò vị vua mới phải hết sức cố gắng lo cho đất nước Sakiya được phồn thịnh an vui.


TẬP 15: TĂNG ĐOÀN HÙNG MẠNH

Sau khi Đức Phật và đoàn tỳ kheo dời về khu tinh xá mới, các thanh niên trong hoàng tộc Kipilavatthu rủ nhau đến xin Phật xuất gia, trong đó có các vị: Ananda, Anuruddha, Kimbila, Meghiya, Nandiya, Bhadiya, Devadatta, Bhagga, Tissa, Usabha, Uttiya, Parupunnaka, Rakkhita, Pakkha, Sappadasa… Công Nương Yashodara cúng dường đầy đủ vật thực cho các vị tỳ kheo. Vua Sudhodana khi ấy chứng Tư Đà Hàm, giao lại vương quyền cho người cháu Mahanama (con hoàng đệ Amitodana).
Sáng hôm sau tôn giả Yasa đã bay đến khu rừng Lumbini để quan sát tái hiện lại lúc Phật vừa đản sinh và đảnh lễ, khi ấy cây hoa Ưu Đàm trổ hoa rợp từ trên ngọn xuống đến gốc, hài nhi bước lẫm đẫm trên thảm hoa rực rỡ, thiên thần tấu nhạc vang lừng, hào quang chiếu khắp mười phương. Ngài dặn có vị tiều phu không cho ai chặt phá khu rừng Lumbini này, đây là nơi thánh địa muôn đời của chúng sinh.

Tôn giả Asaji và năm anh em Kondanna xin phép Thế Tôn về thăm và hóa độ cho gia quyến.
– Ngài Kondana độ cho gia đình chứng quả Nhập Lưu vả ngài Punna Mantaniputta xin xuất gia.
– Ngài Asaji thị hiện thần thông rực rỡ cho gia đình của mình được chiêm ngưỡng và kính tin.
Hoàng Hậu Yashodara đến thăm Phật và được Đức Phật hướng dẫn về việc. “Này Yashodara, khi hành giả thực hành tu tập phải biết thân trên thân. Thân gồm những gì, thân sẽ ra sao, hành giả phải biết rõ. Bên ngoài thân gồm tóc, da, lông, móng…, bên trong thân gồm xương, não, tủy, thịt, mỡ, chất dịch, máu, nội tạng…, hành giả đều phải biết rõ. Rồi thân này theo thời gian tuổi tác mà già cỗi, bệnh hoạn, đau yếu, và cuối cùng là hoại diệt mạng chung.
Này Yashodara, sau khi thân hoại mạng chung thân này sẽ sình trương, rửa thối, chỉ còn lại bộ xương. Rồi theo năm tháng, ngay cả bộ xương cũng rã thành đất bụi hư vô. Hành giả phải quán về thân theo trình tự rõ ràng như thế. Khi tâm bắt đầu yên lắng nhờ quán thân trên thân, hành giả sẽ biết rõ hơi thở ra hơi thở vào.

Sau đó, có người giữ ngựa năm xưa đến xin với Phật xuất gia và cả người thợ hớt tóc Upali. Một buổi chiều mát, các tỳ kheo đến trước thất của Đức Phật ngồi đầy cả khoảng sân rộng, nhiều người trong hoàng tộc và các cư sĩ cũng đến thăm Đức Phật. Vị Vua mới Mahanama đến bạch với Phật về việc chỉ có hoàng tộc, giai cấp cao quý mới xuất gia nhưng Phật đã giảng một bài đạo lý rất tuyệt vời về sự bình đẳng. Mọi người suýt xoa tán thán vì những lời dạy cảm động và vĩ đại của Thế Tôn.

Tôn giả Pinana trong lần đi khất thực để hóa độ cho mọi người đã thị hiện thần thông.

Tôn giả Pinana ngồi kiết già nhập định, thân hình cất lên lơ lửng giữa nhà, toàn thân tôn giả lửa bắt đầu bốc cháy. Mọi người đều sửng sốt. Nhiều người hàng xóm chạy đến xem. Lửa cháy phừng phừng nhưng tất cả đồ vật trong nhà chẳng bị chút xém nào cả, mọi người kéo lại chật cả nhà của Janna. Khi cảm thấy đã đủ, tôn giả tự tắt lửa, hạ người xuống đất, chào mọi người rồi ôm bát ra về. Việc tôn giả Pinana thi triển thần thông trong căn nhà ở trong hẻm lan nhanh về tinh xá, chư tăng vội kéo đến hỏi thăm ngài.

Tôn giả Pinana đến bạch Phật: “Bạch Thế Tôn vì con không đủ lời lẽ để hóa giải tà kiến của chúng sinh nên con tạm sử dụng thần thông để cảnh tỉnh họ. Con cảm thấy con không nên trú lại đây lâu hơn. Cúi xin Thế Tôn cho phép con rời Kapilavatthu trước ạ. Con xin được vân du giáo hóa tùy duyên”. Phật bảo ngài cứ làm việc ngài nghĩ là phải thời. Tôn giả Pinana ôm bát chào chư Tăng rồi ra đi về phương Bắc, nơi có những ngọn núi quanh năm tuyết phủ.

Đức Phật có đưa tôn giả Nanda lên thăm cõi trời, Phật nắm tay tôn giả Nanda, bỗng cả hai người thân thể chuyển sang trạng thái mờ ảo kỳ lạ và bay vút lên cao, bay qua khỏi các tầng mây, nhìn phía đông mặt trời lấp ló tia sáng đầu tiên, phía tây cả đại địa vẫn chìm trong bóng đêm. Hai người bay lên cao dần về phía đông, hai người bay vượt khỏi địa cầu… Phật vẫn cầm tay ngài Nanda bay ngang qua những Thiên Nữ xiêm y lộng lẫy, tóc bới xinh đẹp, trang sức vàng ngọc lóng lánh. Những Thiên Nữ có gương mặt nhân hậu hiền lành nhưng đẹp như muôn nghìn đóa hoa kết lại. Đức Phật nắm tay ngài Nanda dẫn đi, ngài Nanda vẫn sững sờ cứ ngoái nhìn mãi!

Sau khi về lại, Đức Phật đã hỏi ngài Nanda: “Đệ thấy các thiên nữ so với cô dâu vợ của đệ thì như thế nào?”. Ngài Nanda đáp: “Bạch Thế Tôn, nếu so với các thiên nữ thì các cô gái đẹp ở Kapilavatthu này chẳng khác gì các con vật bị chết cháy trong rừng.

Đức Phật bảo: “Nếu ta đưa đệ xuống địa ngục thì đệ sẽ thấy ngược lại, chúng sinh bị đọa đày dưới đó mặt mày biến dạng vô cùng gớm ghiếc. Thật vậy, sắc đẹp của con người là vô thường, thay đổi. Ai biết tu dưỡng tâm hồn và làm các điều phúc lành thì nhan sắc xinh đẹp; ai có ác tâm làm những điều bất thiện thì nhan sắc xấu xí. Này Nanda, thân xác này là vô thường biến hoại, ngày nào rồi cũng sẽ già bệnh rồi tử vong. Đệ hãy thường suy nghiệm quán chiếu như thế để tiến tu”. Phật quay về lại hương thất, tôn giả Nanda nhìn theo rưng rưng nước mắt. Từ đó, tôn giả Nanda rất tinh tấn tu tập tọa thiền đều đặn.


TẬP 16: HOA TRỜI RƠI RƠI

Trên đường làng, khi tôn giả Moggalana cùng với vài vị tỳ kheo đang đi khất thực. Bỗng tôn giả Moggalana mỉm cười. Một vị tỳ kheo thấy vậy liền thưa: “Xin tôn giả cho chúng con biết tôn giả cười điều gì ạ?”. Tôn giả Moggalana đáp rằng ngài thấy tại triền núi kia có một chúng sinh kỳ lạ. Hình hài của chúng sinh này giống như người, rất to lớn. Có giòi bọ đục khoét cả miệng. Và nói với các tỳ kheo là hãy về hỏi Thế Tôn sẽ rõ hơn.
Khi về đến tinh xá, các tỳ kheo đến đảnh lễ Phật và hỏi Đức Phật việc này. Đức Phật đã nói với các tỳ kheo rằng khi vừa thành đạo Người cũng thấy những chúng sinh như vậy, nhưng lúc đó Người không nói ra vì nếu Người nói ra nhiều người sẽ không tin, mà khi họ sinh lòng bất tín đối với Người thì họ sẽ tổn phước. Nay vì Moggalana đã nói nên Người cũng nói. Chúng sinh đó kiếp xưa là người tài giỏi, biết thuyết pháp. Nhưng vì muốn chiếm đoạt một tu viện nên đã lập mưu gây chia rẽ huynh đệ người khác, khiến họ bỏ đi. Vì gây chia rẽ và chiếm đoạt nên người này bị đọa ngót trăm nghìn năm trong hình hài kỳ dị. Bị thiêu đốt, bị giòi bọ đục khoét rất đau khổ.

Sau khi nghe Thế Tôn nói, các vị tỳ kheo lại thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, kẻ phàm phu chưa đắc Đạo như chúng con chỉ nhìn thấy một cõi này. Xin Thế Tôn cho chúng con biết trong vũ trụ bao la này có bao nhiêu cõi nữa ạ?”. (Đức Phật giảng về các cõi giới)

Thế Tôn đáp rằng, vũ trụ pháp giới có ba cõi là dục giới, sắc giới và vô sắc giới.

Dục giới bao gồm các chúng sinh từ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cõi người và một số cõi trời thấp. Đặc tính của cõi dục là chúng sinh vẫn còn nghiệp dâm dục.

Sắc giới bắt đầu từ cõi sơ thiền trở lên. Cả các tầng trời Phạm Thiên lên đến cõi trời sắc cứu cánh. Đặc tính của cõi trời sắc giới là Chư thiên đã hết nghiệp dâm dục (Tr28). Chư thiên cõi sắc giới này vẫn còn hình dáng, rất to lớn và rất tự tại.

Vô sắc giới bao gồm các cõi trời không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ. Chúng sinh cõi vô sắc giới không còn hình dáng thân thể nữa, chỉ còn trạng thái tâm vô hình. Chính vì vậy Chư thiên cõi này hay lầm tưởng mình đã an trú Niết Bàn. Đến khi hết thọ mạng trong vài trăm nghìn năm, lại tái sinh trở xuống.

Sau khi nghe Thế tôn giải thích về các cõi giới, các vị tỳ kheo tiếp tục hỏi Thế Tôn về bốn mức thiền và bốn quả vị thánh.

Các vị tỳ kheo hỏi rằng: “Ai đã chứng A La Hán thì an trú Niết Bàn không còn tái sinh nữa. Vậy nếu những ai khi thân hoại mạng chung mà vẫn chưa chứng A La Hán, chỉ chứng các quả vị thấp hơn hoặc chỉ chứng các mức thiền, thì sẽ sinh về cõi nào ạ?”.

Thế Tôn đáp rằng, ai chứng quả vị Tu Đà Hoàn là đã vào dòng Thánh, sẽ tái sinh trở lại cõi người nhiều lần trước khi chứng A La Hán, mà chắc chắn sẽ chứng A La Hán vào lúc nào đó. Vị Tu Đà Hoàn này khi lên xuống giữa cõi trời và cõi người không cố định tùy theo nghiệp duyên.

Những vị chứng Tư Đà Hàm sẽ phải tái sinh lại cõi người duy nhất một lần.

Sau đó, hoặc vị đó chứng A Na Hàm không còn trở lại cõi người nữa, lên cõi trời sắc giới rồi chứng A La Hán tại đấy; hoặc trong lần tái sinh lại cõi người đó, vị đó chứng A La Hán luôn. Còn trước khi tái sinh lại cõi người một lần cuối, vị đó có thể từ cõi người hoặc từ cõi trời đến. Những vị chứng A Na Hàm thì không còn tái sinh lại cõi người nữa, sẽ sinh về cõi trời sắc giới, thường là cõi trời sắc cứu cánh và cuối cùng chứng A La Hán tại đấy. Thời gian vị đó tồn tại ở cõi trời sắc giới lâu hay mau tùy nhân duyên của từng vị.
Đức Phật lại nói tiếp rằng, không phải chứng các mức thiền đều là đã chứng các quả thánh như trên. Có một số ngoại đạo cũng chứng được các mức thiền, có thần thông nhưng vẫn không đắc quả thánh giải thoát. Chỉ trong pháp và luật của Như Lai mới có bốn quả thánh như trên.
Nếu một tỳ kheo hay cư sĩ tại gia trong pháp và luật của Như Lai, chứng được Chánh Niệm Tỉnh Giác, rất dễ cho vị đó chứng được Tu Đà Hoàn. Hai quả thánh ban đầu tương ứng với giai đoạn Chánh Niệm Tỉnh Giác, phá năm triền cái.
Nếu một vị tỳ kheo hay cư sĩ tại gia trong pháp luật của Như Lai, chứng được từ sơ thiền đến
tam thiền rất dễ cho vị đó chứng được tam quả A Na Hàm. Phải biết tam quả A Na Hàm tương ứng sơ thiền cho đến tam thiền.
Nếu một vị tỳ kheo trong pháp và luật của Như Lai, chứng được
tứ thiền rất dễ cho vị đó chứng được A La Hán. Phải biết tứ quả A La Hán tương ng với tứ thiền.
Sau khi nghe Đức Phật nói về các mức thiền và các quả vị thánh thì các vị tỳ kheo đảnh lễ Đức Phật và lui ra.

Trong kinh thành Kapilavatthu, tại lâu đài Vua Sudhodana đang cùng với Mahanama và Yashodara đang bàn về việc nước. Năm nay, trúng mùa lúa nên dân tình được an ổn, thuế thu được nhiều. Mối giao hảo với các nước anh em vẫn tốt đẹp, vẫn cư xử đúng mực, khéo léo với đại vương Pasenadi ở Savathi. Nhưng lâu dài thì cũng không lường hết được những biến động bất ngờ.

Vua Sudhodana nói rằng: “Đạo giáo và tâm linh sẽ là cách giao hảo tốt nhất các con à. Khi nào Thế Tôn nhiếp hóa được đại vương Pasenadi thì ta với Kosala sẽ yên ổn hơn. Con nên sắp xếp mở đường cho Thế tôn về Savathi đi”.

Công Nương Yashodara thưa với phụ vương rằng, có sẵn Sudatta là người của mình ở Savathi, là cơ sở kinh doanh tài chính cho ta. Sudatta là người rất có tâm từ thiện hay giúp đỡ những kẻ cô quẫn khốn cùng. Nên được mọi người tặng cái tên là Cấp cô độc Anathapindika. Sudatta sẽ về Vương xá xin làm đệ tử Thế Tôn và thỉnh Thế Tôn về nhận cúng dường một tinh xá ở Savathi. Sẽ chọn khu đất đẹp nhất để xây tinh xá cho Thế Tôn tại đấy. Vua Sudahodana nói rằng đây là một ý kiến hay và hãy lấy tài sản lúc trước ngài đã cho Thế Tôn để mua đất và xây tinh xá. Mahanama nói rằng Công Nương Yashodara nên chủ động cho người đi tìm khu đất thích hợp để làm tinh xá rồi hãy báo cho Sudatta biết. Nên tìm khu đất gần kinh đô Savathi để Thế Tôn giáo hóa được kinh đô thì sẽ gây ảnh hưởng hết cả khu Kosala.

Công Nương Yashodara quyết định đích thân sang Savathi tìm khu đất đẹp để xây tinh xá cho Thế Tôn. Đến nhà Sudatta, Công Nương truyền đạt cho Sudatta việc xây tinh xá tại đây và bảo Sudatta trước hết phải về thăm quê vợ ở Rajagaha (Vương xá thành) để đến đảnh lễ xin làm đệ tử của Thế Tôn. Sau đó hãy thỉnh Thế Tôn về Savathi này để lập tinh xá.

Khi Công Nương cùng các cung nữ cưỡi ngựa ra ngoài thành. Chợt họ thấy một khu vườn rừng xanh tươi, nhiều cây cao to được rào giậu cẩn thận. Hỏi ra thì biết đây là khu vườn của Thái Tử Jeta (Kỳ Đà), con của đại vương Pasenadi. Mọi người đi vào ngắm. Cảnh bên trong đẹp không thể tả, hơn Trúc Lâm tinh xá nhiều lần. Và Công Nương quyết định rằng bất cứ giá nào cũng phải mua khu đất này để làm tinh xá cho Thế Tôn. Trở lại nhà của trưởng giả Sudatta, mọi người bàn bạc xem làm thế nào để mua được khu vườn này. Sudatta trình bày cặn kẽ những việc của triều đình Vua Pasenadi để Công Nương tìm cách buộc Thái Tử Jeta phải bán lại khu đất đó vì khó có thể dùng tiền bạc để thương lượng với Thái Tử.

Cuối cùng, Công Nương bảo Sudatta đến nhà tế sư Bhaggava của Vua Pasenadi, mang theo nhiều tiền vàng để tặng tế sư nhân dịp vợ tế sư vừa hạ sinh một bé trai. Và nhờ vị tế sư này nói với đại vương rằng Thái Tử Jeta không nên ở khu vườn rừng đó, vì khu đất đó ứng với người tu hành đạo sĩ. Thái Tử ở gần đó sẽ dần dần thích tu mà không thể gánh vác chuyện quốc gia đại sự được.

Khi vị tế sư vào cung tâu lại với nhà Vua việc này thì cùng lúc đó trưởng giả Sudatta xin vào cầu kiến nhà Vua. Sudatta xin nhà Vua minh xét cho mình việc này “Thần có hỏi Thái Tử Jeta xin mua lại khu vườn rừng của Thái Tử. Thái Tử bảo rằng nếu thần trải vàng khắp khu đất thì Thái Tử sẽ bán. Nay thần xin đại vương làm chứng, thần sẽ trải vàng khắp khu đất như lời Thái Tử yêu cầu và Thái Tử không được nuốt lời”. Thái Tử Jeta cũng vừa chạy vào nói rằng mình nói như vậy có nghĩa là không muốn bán, đó chỉ là lời thách thức huyễn hoặc. Nhà Vua nói với Jeta rằng dù nói đùa nói thách thì đó cũng là một giao ước thương mại rồi. Quay sang Sudatta nhà Vua hỏi vì cớ gì mà dám bỏ ra hết gia sản để mua khu đất đó. Sudatta thưa rằng mình muốn mua khu vườn rừng đó để xây cất một tinh xá cúng dường cho một vị đạo sư. Vua Pasenadi thấy điều này phù hợp với điều vị tế sư của mình đã nói là khu vườn đó ứng với người tu hành đạo sĩ mà thôi.

Nhà Vua hỏi Sudatta vị đạo sư đó là ai vậy. Sudatta thưa rằng vị đạo sư đó chính là Thái Tử Siddhattha của xứ Sakya, xuất gia tu hành đắc đạo, hiện nay đang ở Rajagaha và được Vua Bimbisara tôn làm Thầy. Nếu đạo sư Siddattha có một tinh xá ở đây, tới lui giáo hóa thì đất nước Kosala sẽ được nhiều lợi ích, tình lân bang hữu hảo với nước Magadha cũng tốt hơn. Vua Pasenadi thấy đây cũng là điều tốt nên đã đồng ý cho Sudatta mua lại khu vườn rừng đó và chỉ cần tìm một viên ngọc nào rất sáng, rất to, rất đẹp để làm quà cho Thái Tử Jeta là được rồi. Mặc cho Thái Tử Jeta phản đối Vua Pasenadi vẫn quyết định bán khu vườn rừng đó với điều kiện sau này gọi tên khu vườn rừng là Jetavana.

Sudatta về báo tin cho Công Nương và Sudatta bắt đầu đi về Rajagaha để xin làm đệ tử và thỉnh Thế Tôn nhận cúng dường Jetavana. Sudatta đén tinh xá Trúc Lâm và xin được quy y làm đệ tử của Thế Tôn. Và kính thỉnh Thế Tôn cho mình được cúng dường Thế Tôn và chúng tăng một tinh xá ở Savathi. Đức Phật im lặng giây lát rồi nói rằng sẽ cho Sariputta về Savathi để xem xét việc xây cất tinh xá.

Sau đó, tôn giả Sariputta, mười vị tỳ kheo cùng với đoàn người của Sudatta lên đường về Savathi.
Từ sau khi Sudatta mua khu vườn rừng của Thái Tử Jeta, thì Vua Pasenadi rất quan tâm và luôn cho người theo dõi quanh nhà của Sudatta. Nên Công Nương Yashodara không thể đến đây nữa chỉ cử người mang vàng, truyền lại lời dặn dò về việc xây dựng tinh xá và đưa cho Sudatta một viên ngọc minh châu to đẹp cực quý để đền bù cho Thái Tử Jeta về khu đất vườn rừng. Và Sudatta cũng xin được lấy tài sản của mình góp vào việc xây dựng tinh xá.

Hôm sau, Sudatta cùng tôn giả Sariputta và các vị tỳ kheo đến khu vườn rừng. Ông trình bày lại mong muốn của Công Nương Yashodara là muốn xây dựng tinh xá như một hoàng cung và xin dành một khu đất cho nữ giới dự phòng sau này Thế tôn cho nữ giới xuất gia. tôn giả Sariputta bảo rằng Vua Pasenadi vốn là người đa nghi, lại chưa hiểu gì về chánh pháp của Thế Tôn. Nếu ta xây dựng một tinh xá nguy nga như hoàng cung thì lập tức Vua Pasenadi sẽ phản ứng bất lợi. Thậm chí, sẽ tìm cách ngăn cản việc xây dựng hoặc tìm cách lấy lại miếng đất này. Bây giờ ta xây va đủ, đợi khi nào Vua Pasenadi thật lòng kính mộ chánh pháp của Thế Tôn thì ta sẽ mở mang thêm, ta sẽ dành nhiều khu đất cho sự phát triển về sau. Hơn nữa, Thái Tử Jeta cũng còn oán hận trong lòng. Còn về việc dành khu đất cho nữ giới thì tôn giả đồng ý.

Tôn giả Sudatta dẫn kiến trúc sư giỏi nhất Savathi đến gặp tôn giả Sariputta để trình bày mô hình tinh xá. Sau đó, tinh xá bắt đầu đi vào xây dựng. Cùng lúc đó, trong ngôi đền thờ bà la môn, các giáo sĩ bà la môn căng thẳng bàn bạc. Họ lo sợ chánh pháp của Thế Tôn sẽ phát triển ở Savathi này. Nên bàn kế hoạch ngăn chặn việc xây dựng tinh xá. Họ thuê những người sống ngoài vòng pháp luật đến từng nhà người thợ để uy hiếp hăm dọa.

Hôm sau, công trường chỉ còn lác đác vài người làm. Trưởng già Sudatta ngơ ngác chạy tới chạy lui hỏi mà chẳng ai biết gì cả. Công Nương Yashodara nghe chuyện nên cấp tốc đến Savathi để xem xét tình hình. Sau khi phân tích khả năng việc này do các bà la môn làm thì người phái các thám tử đến nhà các thợ để tìm hiểu vì sao. Khi các thám tử theo dõi nhà người thợ thì phát hiện một người che mặt khả nghi đi vào. Theo dõi người khả nghi đó đến một ngôi nhà thì thấy một đám người đang tụ tập, một tên báo cáo lại với tên đầu đảng là các thợ thuyền đã bỏ việc được năm ngày. Khi bọn chúng đang uống rượu mừng và cười nói thì bất chợt cánh cửa gỗ bị đá bay tung. Vị thám tử bước vào và nói với tên đầu đảng là hãy cho thủ hạ đến bảo các thợ thuyền ngày mai đi làm trở lại. Vì nếu họ không chịu đi làm trở lại thì tên đầu đảng hết đường sống. Nghe câu đó bọn chúng lập tức xong vào chém vị thám tử tới tấp. Vị thám tử tung bay, gạt đỡ, đá văng gươm đao, đánh gục từng tên. Bên ngoài chợt bước vào nhiều vị thám tử áo đen khác nữa. Sau đó bọn chúng đã khai là nhận tiền của các bà la môn để làm việc này. Các vị thám tử buộc chúng ngay lập tức phải đến từng nhà người thợ bảo họ quay lại làm việc ngày mai.

Hôm sau, công trường tấp nập trở lại như cũ, các hạng mục đã hình thành rõ nét. Ít lâu sau tinh xá được hoàn thành. Mọi người đứng nhìn hoan hỷ. Dân chúng của Savathi kéo nhau ra khỏi thành để đến tham quan tinh xá. Mọi người bàn tán hỏi nhau về đạo sư Gotama là bậc thế nào mà trưởng giả Sudatta mua cả khu đất của Thái Tử Jeta để xây tinh xá hiến cúng. Và đoán rằng chắc đây là một vị đạo sư lỗi lạc lắm. Mọi người bảo nhau đi nhanh và đứng vào hàng để nghinh đón đạo sư Gotama.

Cuối cùng, Đức Phật và theo sau là khoảng năm trăm vị tỳ kheo nghiêm trang đi đến tinh xá Jetavana. tôn giả Sariputta và các vị tỳ kheo ra đón và đảnh lễ Phật tận ngoài đường xa. Trưởng giả Sudatta cũng quỳ xuống đảnh lễ đón Phật và chúng tăng. Dân chúng hiếu kỳ đến xem rất đông, nhìn thấy dung nghi rực rỡ của Phật liền chắp tay cúi chào, có người quỳ xuống đất để lạy. Lẫn trong đám dân chúng xôn xao có người phụ nữ ăn mặc nghèo nàn, lặng lẽ nhìn Phật và Rahula và chảy nước mắt. Người đó chính là Công Nương Yashodara.

Sau khi Đức Phật cùng đoàn tỳ kheo đến tinh xá Jetavana, tôn giả Sariputta thỉnh Phật đến nhà nghỉ. Trong nhà nghỉ đã bố trí sẵn chỗ ngồi cho các vị tỳ kheo. Gia nhân của trưởng giả Sudatta bưng nước đến cho chúng tăng rửa tay chân. Còn Sudatta đích thân mang nước cho Phật rửa tay chân và dâng cúng cả nước uống. Rồi ông bảo cháu mình là Subhuti ở đây hầu Thế Tôn, còn ông sẽ đi ra sau xem công việc chút.
Rồi sau đó Đức Phật bắt đầu thuyết giảng. Người nói rằng có
bốn nơi đáng để cư trú.

Thứ nhất là nhà chúng sinh có tâm từ bi với các loài, nơi không có hận thù giết hại.

Thứ hai là nơi có chánh pháp được tuyên giảng rộng rãi.

Thứ ba là nơi có các bậc Thánh cộng trú.

Thứ tư là Niết Bàn giải thoát nhưng chỉ có những bậc xuất gia, chứng đạt trí tuệ thù thắng mới có thể an trú Niết Bàn của A La Hán.

Ở những nơi như vậy, tâm ta được an lạc, được lợi ích, được thấm nhuần thiện pháp. Mỗi người hãy tạo ra trú xứ như thế cho mình và cho mọi chúng hữu tình chung quanh.

Cuối bài pháp rất nhiều người đã chứng quả thánh Tu Đà Hoàn. Những đóa hoa trời lấp lánh rơi rơi khắp cả tinh xá, vừa chạm đất liền biến mất. Mùi hương lạ ngào ngạt khắp vùng. Trên trời những vầng mây ngũ sắc xuất hiện.

Sau đó, Subhuti đến quỳ trước Đức Phật chp tay thưa rằng: “Con đã tỏ ngộ chánh pháp, con không còn muốn cư trú trong nhà thế tục với vô số phiền toái. Xin cho con được xuất gia để con được cư trú trong ngôi nhà có từ bi, ngôi nhà có chánh pháp, ngôi nhà có những bậc Thánh cộng trú và để con được cuối cùng an trú Niết Bàn giải thoát ạ”. Đức Phật đáp: “Lành thay, hãy đến đây Subhuti”. Lập tức Subhuti biến thành tỳ kheo với tóc đã sạch, áo đã thành ca sa thật oai nghi.

Sau khi trưởng giả Sudatta kính thỉnh, Thế Tôn chấp nhận cho mình được cúng dường Thế Tôn và chúng tăng tinh xá ở Savathi. Đức Phật im lặng giây lát rồi nói: “Này Sudatta, Như Lai sẽ cho Sariputta theo ông về Savathi để xem xét việc xây cất tinh xá”. Sau đó, tôn giả Sariputta và mười tỳ kheo cùng với đoàn của Sudatta lên đường về Savathi.

Trên đường đi, một tỳ kheo trẻ chợt hỏi tôn giả Sariputta: “Thưa tôn giả Sariputta, con nghe nói ai chứng được sơ thiền là ly dục, ly bất thiện pháp, nghĩa là diệt được dâm dục, có phải vậy chăng?, thưa tôn giả Sariputta, con nghe nói khi Thế Tôn mười hai tuổi, trong một lần ra ngoài đồng dự lễ hạ điền, Thế Tôn đã chứng được sơ thiền, ngồi nhập định dưới tàng cây suốt buổi, có phải đó là sự thật không ạ?”.

Tôn giả Sariputta đáp: “Đúng vậy, này Udaka”.

Vị tỳ kheo lại hỏi tiếp: “Thưa tôn giả Sariputta, nếu sự tình là đúng như vậy thì Thế Tôn đã diệt hết dâm dục từ khi mười hai tuổi. Sao Thế Tôn có thể lấy vợ là Công Nương Yashodara và hạ sinh Sa di Rahula được ạ?”.

Tôn giả Sariputta đáp: “Này Udaka, thầy có biết gì về ba mươi hai tướng đại nhân của Thế Tôn không?”.

Tỳ kheo Udaka thưa rằng: “Thưa tôn giả Sariputta, con có biết ạ”.

Tôn giả Sariputta lại hỏi tiếp: “Này Udaka, thầy có biết thế nào là tướng âm mã tàng của Thế Tôn chăng?”.

Tỳ kheo Udaka thưa rằng: “Thưa tôn giả Sariputta, con nghe nói tướng âm mã tàng là bộ phận sinh thực khí rút vào trong kín đáo, chỉ khi cần bài tiết thì mới lộ ra”.

Tôn giả Sariputta đáp: “Chỉ những bậc Bồ Tát suốt năm trăm kiếp không hành dâm dục thì mới được tướng âm mã tàng như thế. Thầy nghĩ đi, chẳng lẽ suốt năm trăm kiếp Thế Tôn thanh tịnh để rồi kiếp này không thanh tịnh hay sao”.

Tỳ kheo Udaka thưa rằng: “Thưa tôn giả Sariputta, con tin Thế Tôn là thanh tịnh, nhưng sự hạ sinh của Rahula là từ đâu, con không hiểu nổi”.

Tôn giả Sariputta đáp rằng: “Này Udaka, tỉnh thoảng trên thế gian vẫn có những trường hợp sinh sản đơn tính, không cần sự phối hợp của hai giống. Ở loài người thì rất hiếm, nhưng ở loài vật như rắn, tôm, cá… thì hay xảy ra hơn. Rahula hạ sinh là do tâm khát khao có con của Công Nương Yashodara, đồng thời để thỏa mãn yêu cầu của Vua Sudhodana là nếu Thế Tôn lúc đó có con thì mới được xuất gia. Đây là một sự đại nhân duyên của trời đất, đủ điều kiện để cho việc sinh sản đơn tính xảy ra. Về sau này, ai mà cứ nghĩ rằng Thế Tôn đã không thanh tịnh vì đã có con là Rahula. Những kẻ đó bị tổn phước nặng nề, khó thoát khỏi dâm dục. Còn những ai tin rằng Thế Tôn thanh tịnh suốt năm trăm kiếp cho đến khi giác ngộ dưới cội bồ đề, người đó được công đức lớn, sẽ thoát khỏi dâm dục thường tình”. Tỳ kheo Udaka quỳ xuống dưới chân tôn giả Sariputta đảnh lễ trong nước mắt.


TẬP 17: BƯỚC CHÂN NI GIỚI

Tại tịnh xá Jetavana (Kỳ Viên), Ngài Sudatta (Cấp Cô Độc) thưa với Phật xin cho Ngài được cúng dường trai phạn cho Phật và tăng đoàn vào ngày mai, nhưng Phật dạy rằng: “Này Sudatta, gần một tháng qua ông đã thường xuyên cúng dường Như Lai và chúng Tăng, đã đến lúc ông nên nhường công đức này cho những cư dân khác. Ngày mai Như Lai và chúng Tăng sẽ đi khất thực”.

Còn trong kinh thành Savatthi (Xá Vệ), người dân kể nhau nghe về Đạo sư Gotama (Cồ Đàm), một con người kỳ tuyệt, tướng mạo siêu phàm, phong thái như thần thánh, đạo lý rất cao cả, mọi người rủ nhau cùng đi thăm viếng Phật. Phật và một số tỳ kheo vào thành khất thực, số đông còn lại thì tản ra khất thực ở các làng mạc chung quanh kinh thành. Ngài Rahula (La Hầu La) đi với Ngài Nanda (Nan Đà) khất thực ở ngoài thành.

Trong lúc ấy, Ngài Nanda (Nan Đà) dặn dò Ngài Rahula (La Hầu La) vài việc bí mật khá quan trọng mà đến nay, Ngài mới tiện nói. Khi còn là Thái Tử, Đức Phật với tấm lòng từ bi và nghĩ đến an nguy của dân chúng mà xây dựng nên một quyền lực ngầm chi phối các nước chung quanh với mục đích bảo vệ Sakiya. Sau khi Thái Tử xuất gia, Công nương Yashodara (Da Du Đà La) đã tiếp quản quyền lực đó với lực lượng thám tử rất đông. Là người nữ, nhưng Công nương đã đảm đương và điều hành rất giỏi lực lượng thám tử này, và đức hy sinh của Người là vô cùng to lớn để giữ được sự bình yên cho Sakiya, cũng như bảo vệ Đức Phật trước những sự chống đối của các ngoại đạo. Người đã hướng dẫn cho Ngài Nanda (Nan Đà) việc điều khiển lực lượng thám tử rộng lớn này với ước mong Ngài Nanda sẽ kế thừa quyền lực.

Thế nhưng nhân duyên đã đủ đầy Ngài đã xuất gia với Đức Phật tìm cầu con đường giải thoát cao cả. Và rồi Mahanama lên ngôi Vua nhưng lại không đủ năng lực chỉ huy lực lượng ngầm này nên Công nương Yashodara (Da Du Đà La) vẫn đang phải tiếp tục nắm giữ quyền chỉ huy rất vất vả. Người đúng là một người phụ nữ đáng kính phục và tôn thờ trên đời này, sự tận tụy, hy sinh và tấm lòng của Người đối với đất nước, với Đức Phật là không ai có thể so sánh được.

Với Đạo quả A La Hán mà Ngài Nanda (Nan Đà) đắc được, Ngài đã dùng tuệ nhãn quan sát và biết rằng Công nương khao khát được xuất gia theo Đức Phật, nhưng nếu Công nương rời bỏ lực lượng thám tử này thì Đức Phật sẽ mất một cánh tay hộ pháp đắc lực vì càng về sau các thế lực ngoại đạo chống phá càng dữ dội.

Và không phải hễ có thần thông là diệt được hết sự chống phá của ngoại đạo. Sự chống phá là do sự suy nghĩ sai lầm của chúng sinh. Vì vậy, muốn diệt hết sự chống phá đó thì phải thay đổi những suy nghĩ sai lầm của chúng sinh. Muốn thay đổi sai lầm của chúng sinh thì phải giải thích hợp lý. Muốn tiếp cận để giải thích thì phải biết sử dụng nhiều hình thức khác nhau. Những thám tử phải tùy theo ý thích của chúng sinh để khoác lên hình dạng thích hợp mà đến với chúng sinh. Với những ai thích hình tướng Bà La Môn thì dùng thân Bà La Môn để hóa độ. Với ai thích hình tướng Sát Đế Lợi thì dùng hình tướng của Sát Đế Lợi để hóa độ. Chỉ khi nào có người tiếp quản lực lượng thám tử bí mật đó rồi thì Công nương Yashodara (Da Du Đà La) mới có thể tính đến chuyện xuất gia.

Tại tinh xá Jetavana (Kỳ Viên), Ngài Sudatta (Cấp Cô Độc) thưa với Phật xin cho Ngài được cúng dường trai phạn cho Phật và tăng đoàn vào ngày mai, nhưng Phật dạy rằng: “Này Sudatta, gần một tháng qua ông đã thường xuyên cúng dường Như Lai và chúng Tăng, đã đến lúc ông nên nhường công đức này cho những cư dân khác. Ngày mai Như Lai và chúng Tăng sẽ đi khất thực”. Còn trong kinh thành Savathi (Xá Vệ), người dân kể nhau nghe về Đạo sư Gotama (Cồ Đàm), một con người kỳ tuyệt, tướng mạo siêu phàm, phong cách như thần thánh, đạo lý rất cao cả, mọi người rủ nhau cùng đi thăm viếng Phật. Phật và một số tỳ kheo vào thành khất thực, số đông còn lại thì tản ra khất thực ở các làng mạc chung quanh kinh thành. Ngài Rahula (La Hầu La) đi với Ngài Nanda (Nan Đà) khất thực ở ngoài thành.

Trong lúc ấy, Ngài Nanda (Nan Đà) dặn dò Ngài Rahula (La Hầu La) vài việc bí mật khá quan trọng mà đến nay Ngài mới tiện nói. Khi còn là Thái Tử, Đức Phật đã vì lòng từ bi và nghĩ đến an nguy của dân chúng mà xây dựng nên một quyền lực ngầm chi phối các nước chung quanh với mục đích bảo vệ Sakiya. Sau khi Thái Tử xuất gia, Công nương Yashodara (Da Du Đà La) đã tiếp quản quyền lực đó với lực lượng thám tử rất đông. Là người nữ, nhưng Công nương đã đảm đương rất giỏi lực lượng thám tử này, và đức hy sinh của Người là vô cùng to lớn để giữ được sự bình yên cho Sakiya, bảo vệ Đức Phật trước những sự chống đối của các ngoại đạo. Người đã hướng dẫn cho Ngài Nanda (Nan Đà) việc điều khiển lực lượng thám tử rộng lớn này với ước mong Ngài Nanda sẽ kế thừa quyền lực.

Thế nhưng nhân duyên đã đủ đầy Ngài đã xuất gia với Đức Phật tìm cầu con đường giải thoát cao cả. Và rồi Mahanama lên ngôi Vua nhưng lại không đủ năng lực chỉ huy lực lượng ngầm này nên Công nương Yashodara (Da Du Đà La) vẫn đang phải tiếp tục nắm giữ quyền chỉ huy rất vất vả. Người đúng là một người phụ nữ đáng kính phục và tôn thờ trên đời này, sự tận tụy, hy sinh và tấm lòng của Người đối với đất nước, với Đức Phật là không ai có thể so sánh được. Với Đạo quả A La Hán mà Ngài Nanda (Nan Đà) đắc được, Ngài đã dùng tuệ nhãn quan sát và biết rằng Công nương khao khát được xuất gia theo Đức Phật, nhưng nếu Công nương rời bỏ lực lượng thám tử này thì Đức Phật sẽ mất một cánh tay hộ pháp đắc lực vì càng về sau các thế lực ngoại đạo chống phá càng dữ dội.

Và không phải hễ có thần thông là diệt được hết sự chống phá của ngoại đạo. Sự chống phá là do sự suy nghĩ sai lầm của chúng sinh. Vì vậy, muốn diệt hết sự chống phá đó thì phải thay đổi những suy nghĩ sai lầm của chúng sinh. Muốn thay đổi sai lầm của chúng sinh thì phải giải thích hợp lý. Muốn tiếp cận để giải thích thì phải biết sử dụng nhiều hình thức khác nhau. Những thám tử phải tùy theo ý thích của chúng sinh để khoác lên hình dạng thích hợp mà đến với chúng sinh. Với những ai thích hình tướng Bà La Môn thì dùng thân Bà La Môn để hóa độ. Với ai thích hình tướng Sát Đế Lợi thì dùng hình tướng của Sát Đế Lợi để hóa độ. Chỉ khi nào có người tiếp quản lực lượng thám tử bí mật đó rồi thì Công nương Yashodara (Da Du Đà La) mới có thể tính đến chuyện xuất gia.

Đêm xuống, trong tịnh xá Kỳ Viên, mọi người đã yên nghỉ… Ngài Nanda (Nan Đà), ngồi thiền gần nơi Ngài Rahula (La Hầu La) tập võ để thi thoảng chỉ Ngài vài cách tập. Trên đường về phòng nghỉ, Ngài Rahula (La Hầu La) vừa đi vừa múa vài thế võ. Bất ngờ, Ngài Rahula (La Hầu La) quơ tay trúng đầu một Tỳ Kheo thức giấc đi ra ngoài nghỉ. Sáng hôm sau. Vị Tỳ Kheo ấy đến gặp Ngài Sariputta (Xá Lợi Phất) mách, mong Ngài dạy dỗ, trách phạt Ngài Rahula (La Hầu La) nghiêm khắc vì cho rằng Ngài Rahula (La Hầu La) nghịch ngợm, ngang bướng, lêu lổng, khó bảo nên đêm qua, khi Vị ấy đi ra ngoài nửa đêm, bị Ngài Rahula (La Hầu La) phục sẵn ở cửa đánh vào đầu làm té đau. Ngài Sariputta (Xá Lợi Phất) gọi Ngài Rahula (La Hầu La) đến để hỏi trước mặt Vị Tỳ Kheo và hứa sẽ buộc Ngài Rahula (La Hầu La) sám hối ngay nếu Ngài có lỗi.

Ngài Sariputta (Xá Lợi Phất) hỏi: “Tối qua Chú có phục ở cửa để đánh Tỳ Kheo này hay không?”

– Ngài Rahula (La Hầu La): “Thưa Tôn Giả Sariputta, tối qua con không hề cố ý phục ở cửa để đánh Vị Tỳ Kheo này ạ. Con chỉ vô tình đưa tay lên và đụng phải Vị này mà thôi ạ.”

– Vị Tỳ Kheo liền nói: “Thưa Tôn Giả Sariputta (Xá Lợi Phất), một đứa trẻ 10 tuổi không thể vô tình đưa tay lên đụng vào đầu một thanh niên cường tráng 23 tuổi như con và làm con ngã sóng soài được.”

Vị ấy ví cú đánh của Ngài Rahula (La Hầu La) như có thể so sánh với một lực sĩ quật ngã một con bò cái. Nhưng Ngài Sariputta (Xá Lợi Phất) chắc chắn rằng Ngài Rahula (La Hầu La) không nói dối. Ngài khuyên Vị ấy thông cảm và tha thứ cho sự vô tình này. Tiếc thay! Vị ấy thầm khởi ý nghĩ chê trách, không khuất phục kết quả ấy và không tha thứ cho Ngài Rahula (La Hầu La).”

Buổi trưa đó, Thị Giả Nagasamala vào bạch Đức Phật là có Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) cùng rất đông tùy tùng xin được vào yết kiến. Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) bẩm: “Thưa Đạo Sư Gotama (Cồ Đàm), con là Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc), Vua của quốc vương Kosala (Kiều Tất La) này. Đây là phu nhân của con, Makila (Mạc Lợi) hôm nay xin được đến chào thăm hỏi Đạo Sư.”

– Đức Phật mời Vua hãy hỏi những gì Vua còn nghi ngại. Vua bảo là vua một quốc vương nên không thiên vị một Đạo Giáo nào. Miễn là Đạo Giáo đó đừng gây xáo trộn phản loạn hay tổn hại đến người dân. Vua đã tìm hiểu nhiều về Đạo Giáo từ khi hãy còn là Thái Tử trẻ tuổi. Gần đây, sự xuất hiện của Thế Tôn gây chấn động lớn khiến Vua rất vui khi có Người đến giáo hóa tại Kosala (Kiều Tất La) này. Vua mới xin Đức Phật cho Ngài biết tổng quát và mục đích đường lối của Người để tìm thấy một phần nào lợi ích của một Quốc Vương.

Đức Phật răn dạy đôi lời: “Này Đại Vương, chúng sinh chìm trong luân hồi đau khổ, chịu sự chi phối của nghiệp. Những chúng sinh nào sống với thân khẩu ý bất thiện thì sinh về đọa xứ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Những chúng sinh nào sống với thân khẩu ý hiền thiện thì sinh về lạc xứ cõi trời, cõi người. Chẳng phải ngẫu nhiên mà một người được sinh vào dòng Sát Đế Lợi, cũng chẳng ngẫu nhiên mà một người phải sinh vào dòng Chiên Đà La. Tất cả đều do nghiệp từ quá khứ.

Này Đại Vương, Như Lai tuyên thuyết một con đường đưa đến đoạn tận các khổ đau, chấm dứt tái sinh, an trú Niết Bàn tịch tịch. Những ai thực hành Bát Chánh Đạo lần lượt có thể chứng đạt một trong bốn Quả Thánh.

Từ Sơ Quả Tu Đà Hoàn, đến Nhị Quả Tư Đà Hàm, đến Tam Quả A Na Hàm. Cuối cùng là Tứ Quả A La Hán giải thoát hoàn toàn khổ đau, đạt được sự giác ngộ viên mãn.

Này Đại Vương, nếu trong một vương quốc mà người dân biết thực hành Bát Chánh Đạo thì vương quốc đó sẽ phồn thịnh an vui. Nếu một vị quân vương có thể dạy cho dân biết thực hành Bát Chánh Đạo thì quân vương đó có thể tái sinh cõi trời làm một vị thiên tử đầy uy lực.”

– Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) xin hỏi lại: “Thưa Đạo Sư Gotama, Đạo Sư có thể cho con biết Đạo Sư đã chứng đạt Tứ Quả A La Hán chưa ạ?

– Thế Tôn trả lời rằng: “Này Đại Vương, Như Lai đã có thể giáo hóa cho rất nhiều đệ tử chứng đạt A La Hán, thành tựu Tam Minh Lục Thông.

Này Đại Vương, một vị A La Hán chứng đạt sáu phép thần thông. Gồm Túc Mạnh Thông, là nhớ được vô lượng kiếp quá khứ của mình. Thiên Nhãn Thông là quan sát được sự lưu chuyển của chúng sinh trong Lục Đạo luân hồi. Thiên Nhĩ Thông là nghe hiểu được mọi âm thanh và ngôn ngữ của tất cả chúng sinh. Thần Túc Thông là có thể phi hành biến hóa. Tha Tâm Thông là có thể biết được ý nghĩ của chúng sinh. Lậu Tận Thông là thấu đạt chân lý Tứ Diệu Đế.”

Vua thốt lên rằng: “Thưa Đạo Sư Gotama (Cồ Đàm), khi Đạo Sư nói như thế, con hiểu rằng Đạo Sư đã tuyên bố mình chứng đạt quả vị A La Hán. Thậm chí, còn cao hơn A La Hán vì có thể dẫn đường cho nhiều đệ tử chứng đạt A La Hán.

Nhưng, thưa Đạo Sư Gotama (Cồ Đàm), làm sao Đạo Sư có thể chứng đạt quả vị cao cả như thế khi tuổi đời hãy còn rất trẻ. Theo con biết thì Đạo Sư Gotama vừa bằng tuổi con, nghĩa là 40 tuổi. Nhiều vị Ba Là Môn, nhiều Sa Môn già nua nhăn nheo tóc bạc cũng chẳng dám xưng mình là A La Hán.Trong khi Đạo Sư Gotama, hãy còn rất trẻ, tóc xanh, rời bỏ kinh thành xuất gia lúc 29 tuổi, qua 6 năm tu hành ở Uruvela, rồi giáo hóa gần 5 năm từ vương quốc Magadha (Ma Kiệt Đà) đến Kosala (Kiều Tất La) này?”

– “Này Đại Vương, có bốn điều tuy nhỏ mà ta không nên xem thường. Một là đốm lửa nhỏ có thể đốt cháy cả khu rừng. Hai là con rắn nhỏ vẫn có thể cắn chết người. Ba là một Thái Tử trẻ tuổi ngày nào sẽ lên làm Vua nắm trọn quyền lực. Bốn là một Sa Môn trẻ tuổi có thể ngày nào chứng đạt A La Hán.”

– Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) sửng sốt: “Bạch Thế Tôn, con tin Thế Tôn là Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, con tin Thế Tôn là Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì câu nói vừa rồi của Thế Tôn ẩn chứa một bí mật mà chỉ có con mới biết. Nay con xin Quy Y Thế Tôn, Quy Y Chúng Đệ tử của Thế Tôn.”

Vua và đoàn người ra về. Hoàng Hậu thắc mắc câu nói về bốn điều nhỏ không được xem thường của Thế Tôn có cái gì bí ẩn mà Vua xúc động nhiều đến thế. Vì câu nói vừa rồi của Thế Tôn chính là câu nói của Vua hơn hai mươi năm trước. Khi theo học ở Đại Học Takkasila, Vua có rất nhiều bạn bè vương tôn công tử. Những khi Vua đánh võ bị kém, trả lời chính sách chính trị bị dở, thì khi về phòng, Vua hay bị bạn bè nói những lời châm chọc rất khó chịu, hay bị chê là con nít khờ dại. Một lần Vua không nhịn được, bỗng bật ra câu nói đó để gỡ gạc. Câu nói đó hoàn toàn do Vua tự phát nói lần đầu, trước đó chưa có ai nói. Nay Thế Tôn lặp lại câu đó có nghĩa là Thế Tôn biết rõ chuyện ngày xưa của Vua giống như lúc đó đang đứng bên cạnh. Rõ ràng Thế Tôn là Bậc chứng Đạo siêu phàm, Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) mới chịu phục quỳ xuống đảnh lễ Quy Y.

Bên trong một ngôi đền thờ Bà La Môn, mọi người bàn tán bực tức khi cho rằng Đức Phật đã đi quá xa vì đã được Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) tôn làm Thầy. Như vậy, những người Bà La Môn không còn có thể công khai chỉ trích Đạo Sư Gotama (Cồ Đàm) được nữa, họ chỉ còn cách phá hoại âm thầm, nhưng quyết liệt. Họ tập trung nhau lại và bàn cách nào để hạ bệ Đức Phật như hạ uy tín, giết hay cản không cho ai cúng dường vật thực cho Đức Phật và đệ tử. Có người nghĩ phải tìm người thân trong triều đình nói xấu Thế Tôn với Vua. Thái Từ Jeta (Kỳ Đà) rất hận Đức Phật và nghĩ cách lợi dụng vịn vào sự kiện khu vườn thuộc về sở hữu của Thế Tôn. Họ còn suy nghĩ đưa người giả vờ xuất gia theo Đức Phật rồi tìm cơ hội phá từ bên trong hoặc cho nữ nhân vào dụ dỗ Người. Mọi người lúc ấy cùng kết luận phải liên kết với các Bà La Môn ở các nơi, các nước, để cùng chống lại Đức Phật,…

Trong một khu vườn, một cô thám tử chạy vào báo với Công Nương Yashodara (Da Du Đà La) rằng Thái Thượng Hoàng Sudhodana (Tịnh Phạn) cho mời Công Nương về Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ) gấp. Vị Vua đã quá yếu sức. Công Nương lập tức nhờ cô chuẩn bị ngựa cho Cô về ngay.

Khi vừa về tới Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ), Vua Sudhodana (Tịnh Phạn) dặn những lời cuối cùng: “Này Pajapati (Bà Xà Ba Đề) và các con, nay phải thời ta phải rời bỏ xác thân huyền mộng này. Các người đừng than khóc, vì chưa bao giờ ta hạnh phúc hơn bây giờ. Thế Tôn đã độ cho ta chứng Tam Quả A Na Hàm. Ta không trở lại cõi người nữa mà sẽ sinh về cõi trời sắc giới. Sau khi ta mất, các người nên cố gắng xin Thế Tôn xuất gia. Thế gian không phải là chỗ ở lâu, hãy tinh tấn tu hành để giải thoát.”

Hoàng Hậu Pajapati (Bà Xà Ba Đề) băn khoăn với Vua rằng không biết có nên mời Thế Tôn về ngay không.

Vua bảo rằng: “Thế Tôn có trí tuệ biết rõ mọi việc nên Người sẽ làm việc gì khi đúng thời, ta không cần lo đâu. Ta mất rồi thì tang lễ chỉ được làm đơn sơ để tiết kiệm chi phí…

Kinh thành Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ) xôn xao, dân chúng tụm lại buồn lo, bàn tán hai ngày nữa sẽ hỏa táng, mọi người sẽ đi viếng tang lễ của Ngài. Dân chúng nối nhau đến trước sân cung điện cúi chào thi thể của Vua Sudhodana (Tịnh Phạn) đang đặt trên giàn hỏa. Mọi người nghiêm trang hướng về giàn hỏa, Vua Mahanama (Ma Ha Nam) ??? bước đến châm lửa. Khi lửa bắt đầu bốc lên cao, che khuất thi thể của Vua, chợt mùi hương thơm ngào ngạt tỏa khắp kinh thành. Tiếng nhạc Trời văng vẳng trên cao. Khi ngọn lửa vừa hạ thấp thì mọi người chợt nhìn thấy Phật và hơn 50 Tỳ Kheo đã đứng gần đấy tự bao giờ. Có đầy đủ Ngài Nanda (Nan Đà), Sariputta (Xá Lợi Phất), Ananda (A Nan), Anurudda (A Nậu Lâu Đà), Kimbila (Kim Tỳ La), Nandiya (Nan Đề),… các Vị trong hoàng tộc vừa xuất gia.

Đức Phật và các Tôn Giả nghiêng mình chắp tay khẽ trước đống tro tàn. Cảnh tượng vô cùng xúc động, mọi người đều không kiềm nén được nước mắt. Sau đó, Đức Phật và 50 Tỳ Kheo đi về phía Tịnh Xá phía sau khu vực Ba Lâu Đài nghỉ ngơi.

Một buổi sáng nọ, nhiều nông phu ra đồng làm việc cày bừa. Bên dòng sông Rohini, trơ đá vì khô hạn. Người dân than mưa ít nên nước sông kém quá. Tất cả phải nhanh chóng đắp bờ tát nước dẫn về ruộng xứ Koliya của họ. Họ e là nếu chậm tay, bên xứ Sakiya sẽ đắp bờ tát nước về ruộng bên ấy.

Chợt từ bên kia bờ sông một nhóm nông dân la lên: “Sao các người xứ Koliya lại giành tát hết nước của Sakiya chúng tôi? Các người là quân ăn cướp, hết nước rồi ruộng Sakiya sẽ khô cằn chết hết, Sakiya sẽ chết đói, các người là lũ ác độc.”

– Dân Koliya: “Này các người xứ Sakiya, từ lâu ta nhịn thua các người vì Vua Sudhodana còn sống.”

Nhưng nay Vua Sudhodana đã băng hà thì 2 bên không kiềm nổi mối hận mà tranh cãi dữ dội, thách đố và bước vào hỗn chiến ngay lập tức. Ban đầu, họ đánh nhau sơ sài, về sau họ đánh bằng các thế võ hiểm hóc tinh vi. Chợt có tiếng vang trên hư không, mọi người ngước lên và Đức Phật đã xuất hiện. “Này các người của Sakiya và Koliya hãy dừng tay lại.”

Họ nhìn thấy Thế Tôn, đứng giữa hư không, kinh sợ dạt lui về phần bờ sông của mình. Đức Phật cất tiếng dạy: “Này các người dân của Sakiya và Koliya, trong mọi dòng chảy thì dòng máu là quý nhất. Vì vậy hãy sáng suốt đừng đổ máu để giành lấy nước. Các ngươi giành nước để có ruộng lúa tốt tươi nuôi sống bản thân mình, để cho máu tiếp tục chảy trong thân của mình.

Bây giờ thật là vô lý khi các người bỏ máu đi để giành lấy nước. Này các người dân xứ Sakiya và Koliya, trong việc làm ác của đôi tay thì việc đưa tay ra giết người là ác độc nhất. Trong việc làm thiện của đôi tay thì đưa tay ra làm nên miếng ăn cho con người là hiền thiện nhất.

Vì vậy, các ngươi đừng dùng đôi tay để giết nhau, mà hãy dùng đôi tay để cày cấy ruộng đồng. Này các người xứ Sakiya và Koliya, vì nghiệp của con người bất động nên thời tiết thất thường khi mưa khi hạn. Nếu các người biết khởi tâm từ bi thì trời sẽ mưa thuận gió hòa, nước sông sẽ dâng cao, ruộng đồng xanh tốt…”

Mọi người từ từ quỳ xuống chắp tay hướng về Phật. Tất cả cung kính xin hỏi Phật tu tập và từ bi là gì? Nhưng Đức Phật hẹn vào một dịp thích hợp sẽ giảng về Tu Tập Từ Bi ở Kapilavastu (Tỳ Ca la Vệ). Rồi Đức Phật bay chầm chậm về bờ ruộng và đi về phía Thành Kapilavastu (Tỳ Ca la Vệ). Sau đó, những người nông dân kéo nhau về. Mọi người mong nghe Thế Tôn dạy tu tập từ bi để mưa xuống, khỏi phải đánh giết giành giật với nhau nữa.

Buổi chiều ở Tịnh Xá, nhiều người kéo đến thăm Phật rất đông. Đức Phật tuyên giảng: “Này các Tỳ Kheo và các cư sĩ, có pháp môn, tu tập quán Từ Bi thật là thù thắng, thật là diệu kỳ. Từ Bi giúp đưa đến an lạc trong hiện đời và đời sau, giúp phá trừ các kiết sử, giúp đưa đến giải thoát.

Này các Tỳ Kheo và các cư sĩ, khi một Tỳ Kheo ngồi an trú trong Chánh Niệm, Tỳ Kheo ấy trải lòng từ mẫn, thương yêu tất cả chúng sinh khắp các phương hướng, từ phương trước mặt, sau lưng, hai bên, trên và dưới. Tỳ Kheo ấy nguyện lòng yêu thương tất cả từ người quen biết cho đến chưa quen, từ loài người cho đến cầm thú, từ kẻ thân thiết đến người sơ bạc. Thậm chí vị Tỳ Kheo ấy yêu thương được cả những chúng sinh đã từng có oan trái, hãm hại mình. Như vậy vị Tỳ Kheo ấy làm cho sung mãn, làm cho tràn đầy, làm cho vô hạn tâm từ bi đến vô biên vô lượng. Lòng từ bi của vị Tỳ Kheo ấy như là cỗ xe to lớn chuyên chở vàng bạc châu báu, như là căn cứ địa bảo vệ Kinh Thành trước quân thù, như là biển cả dung chứa các loài thủy tộc.

Này các Tỳ Kheo và các cư sĩ, người có thể tu tập lòng từ bi vô hạn sẽ được tám điều lợi ích. Thế nào là tám lợi ích? Này các Tỳ Kheo và các cư sĩ,

Thứ nhất, các vị này ngủ được an lành;

Thứ hai, vị này thức được an lành;

Thứ ba, vị này được loài người yêu mến;

Thứ tư, vị này được phi nhân yêu mến;

Thứ năm, vị này được chư thiên thường thủ hộ;

Thứ sáu, vị này có thể thoát khỏi các hiểm nạn đau thương lửa cháy hoặc độc trùng;

Thứ bảy, vị này chết sinh về cõi phạm thiên;

Thứ tám, vị này sẽ phá trừ các kiết sử tiến tu cho đến giải thoát.

Này các Tỳ Kheo và các cư sĩ, đó là tám lợi ích của người tu tập từ tâm sung mãn, vững vàng.”

Sau bài Pháp này, nhiều vị Tỳ Kheo và cư sĩ chứng được Quả Thánh từ Tu Đà Hoàn cho đến A La Hán. Mọi người bàn nhau: “Nếu Thế Tôn nói đúng thì chúng ta sẽ cùng nhau tu tập từ bi cho đến khi mưa xuống tràn đồng.”

Đêm đó, trời mây đen kéo về, rồi mưa như trút nước, sấm sét ầm ì trên bầu trời. Người dân bất chấp trời tối, kéo ra đường nhảy múa hò reo. Sáng hôm sau, tất cả các đồng ruộng ngập tràn nước.

Chiều tối, Đức Bà Pajapati (Bà Xà Ba Đề) và Công nương đến thăm Phật. Đức Bà Pajapati hỏi Đức Phật: “Thế Tôn à, người nữ có thể xuất gia được không ạ?”

– Đức Phật đáp lại: “Mẫu thân không nên hỏi như thế.”

Hai người phụ nữ buồn bã ra về. Phật và 50 Tỳ Kheo rời khỏi Kinh Thành Kapilavathu (Tỳ Ca La Vệ) từ sáng sớm, xuôi về phía Nam. Khi tới Kinh Thành Vesali (Tỳ Xá Ly) của Xứ Licchavi, Đức Phật quyết định ở đó vài hôm cùng các Tỳ Kheo.

Đức Phật nói: “Này ANanDa (A Nan), hãy đến ngôi nhà hoang có nóc nhọn đó dọn dẹp làm chỗ ngủ cho Như Lai và các Tỳ Kheo.”

Một vài Tỳ Kheo cùng nhau quét dọn ngôi nhà hoang có nóc nhọn cho sạch sẽ. Các Tỳ Kheo khác đi vào làng khất thực. Ngài Kimbila (Kim Tỳ La) nói với Ngài Nanda (Nan Đà) là hình như chưa từng có vị đệ tử nào của Thế Tôn ghé qua giáo hóa ở đây. Mọi người nhìn các Vị lạnh nhạt, việc khất thực cũng không dễ dàng như các nơi khác. Ngài Kimbila (Kim Tỳ La) thắc mắc sao Thế Tôn không chọn dừng chân tại nơi khác. Ngài Nanda (Nan Đà) nói Thế Tôn làm việc gì dù nhỏ hay lớn cũng đều có lý do sâu xa. Chúng ta chỉ nên nhu thuận vâng lời Thế Tôn là được.

Lúc đó, tại Kinh Thành Kapilavathu (Ca Tỳ La Vệ), Công Nương Yashodara (Da Du Đà La) bẩm với Đức Bà Pajapati (Bà Xà Ba Đề ): “Thưa mẫu hậu, (Bà Xà Ba Đề ) con nghĩ đã đến lúc chúng ta theo Thế Tôn để xin xuất gia làm Ni rồi. Chúng ta chẳng còn gì để luyến tiếc tại Kapilavathu (Ca Tỳ La Vệ ) này cả. Những người thân yêu của chúng ta đều đang ở bên cạnh Thế Tôn, và chúng ta cũng không thể rời xa họ được nữa.”

Đức Bà Pajapati (Bà Xà Ba Đề) đáp: “Này Yashodara (Da Du Đà La) con nói rất đúng, đã đến lúc chúng ta phải xin Thế Tôn được xuất gia. Chỉ có Sundari chưa biết ý nó ra sao.Còn kho tàng vàng bạc châu báu chưa động đến nhiều, mà cũng chưa thể giao cho Mahanama vì chưa biết liệu Mahanama có sử dụng chính đáng không.”

Đức Bà nhờ Công Nương Yashodara (Da Du Đà La) gọi Sundari vào nói chuyện và cô ấy chưa có ý định trở thành Ni, tiếp tục ở lại Kapilavathu (Tỳ Ca La Vệ ) để lấy chồng. Sau đó, Đức Bà Pajapati (Bà Xà Ba Đề) gọi tất cả cung nữ đến nói: “Ân tình của các em đối với Hoàng tộc chúng ta rất sâu đậm. Bây giờ ta và Công Nương Yashodara (Da Du Đà La) quyết định theo Thế Tôn xuất gia nên sẽ không còn sống ở lâu đài hoàng cung này nữa. Ta sẽ cho các em mỗi người một số vàng đủ để sống dư dả cả đời còn lại. Các em có thể về lại với gia đình mình sau khi ta và Yashodara ra đi.” Các cung nữ khóc ầm lên. Các cô quyết một lòng cả đời theo hầu hạ nên xin đi theo xuất gia.

Đức Bà Pajapati (Bà Xà Ba Đề) bàn với Công Nương Yashodara (Da Du Đà La) ai sẽ là người nắm giữ lực lượng thám tử rộng lớn khắp nơi mà Công Nương đang nắm giữ. Nàng trăn trở vì chưa ai đủ sức nắm giữ lực lượng này. Vì trước đây Nàng được Thái Tử hướng dẫn từng chút suốt thời gian dài. Sau này Công nương hướng dẫn lại cho Ngài Nanda (Nan Đà), bất ngờ Ngài xuất gia. Ngài ANanda (A Nan) con của Chú Amitodana cũng rất giỏi, nhưng cũng xuất gia luôn.

Tạm thời Công nương Yashodara (Da Du Đà La) vẫn phải tiếp tục điều hành lực lượng này cho đến khi tìm được người thay thế. Lực lượng này rất quan trọng trong việc bảo vệ và ủng hộ Thế Tôn giáo hóa. Năm năm qua lực lượng này đã ngăn chặn nhiều vụ phá hoại Tăng đoàn và xâm nhập vào các phe xấu để giải thích làm dịu bớt sự chống đối họ. Thế nên Công nương sẽ phải bàn tiếp với Ngài Nanda (Nan Đà) về việc kế thừa lãnh đạo lực lượng thám tử này.

Sau đó, Đức Bà thắc mắc sao có tin báo rằng mọi người ở Vesali (Tỳ Xá Ly) có vẻ thờ ơ trước sự xuất hiện của Đức Phật, không biết có phải do lực lượng thám tử ở đó chưa tác động được vào Triều Đình. Công Nương cũng khẳng định như vậy nên Nàng đã nhắn người ở đó cố gắng thuyết phục vài người trong hoàng tộc đến gặp Thế Tôn. Hai Mẹ Con cùng nhau đi đến Vesali (Tỳ Xá Ly) để gặp Thế Tôn xin xuất gia, kẻo Thế Tôn lại đi đến nơi khác. Đức Bà cũng liền dặn Công nương phái người đến cúng dường Thế Tôn và chư Tăng kẻo người dân cúng dường không đủ. Hai ngày sau đó, 2 Mẹ Con sẽ bắt đầu lên đường.

Buổi sáng, ở Kinh Thành Kapilavathu (Tỳ Ca La Vệ), Triều đình tiễn đưa đoàn của Đức Bà Pajapati (Bà Xà Ba Đề) lên đường về phía Nam. Dân chúng kéo nhau ra quỳ lạy tiễn Đức Bà. Đoàn người đi xa dần rồi mất hút sau những rặng cây ven ruộng. Nhiều người dân qua lại tò mò nhìn ngắm.

Đêm xuống, có nhiều người giăng lều giúp đoàn phụ nữ có chỗ nghỉ qua đêm. Trong đêm, một toán đàn ông cầm dao lẻn đến gần khu lều. Lập tức có nhiều thám tử áo đen nhảy ra đánh bật họ bỏ chạy cả. Sáng hôm sau đoàn người tiếp tục khởi hành.

Tại nơi Đức Phật và Tăng đoàn đang dừng chân, Ngài Kimbila (Kim Tỳ La): “Này hiền giả Ananda (A Nan), cảnh vật ở Vesali (Tỳ Xá Ly) này đẹp như tranh vậy. Con người rất nho nhã, thanh lịch, nhưng họ có vẻ thờ ơ với Đạo giáo quá nhỉ?”.

Ngài ANanda (A Nan) đáp: “Thưa Hiền giả Kimbila (Kim Tỳ La), Thế Tôn dạy rằng mọi chuyện đều do nhân duyên. Có lẽ dân và triều đình ở đây không có duyên với Chánh Pháp”.

Ngài Nanda (Nan Đà) bước tới mỉm cười nói: “Nếu Vesali (Tỳ Xá Ly) mà không có duyên thì Thế Tôn chẳng lưu lại đây ngót nửa tháng thế này. Nhưng Vesali (Tỳ Xá Ly) sẽ có duyên theo cách khác. Chợt Thị giả Nagasamala vào bạch Phật, có Hoàng Tử Mahali cùng tùy tùng đến viếng.

Hoàng Tử: “Kính thưa Đạo Sư Gotama, con tên Mahali, Hoàng Tử xứ Licchavi này. Chúng con nghe Đạo Sư ghé ngang đất nước chúng con nên đến viếng Đạo Sư và xin được vấn an sức khỏe Đạo Sư cùng chư Tăng. Nếu Đạo Sư không ngại thì con xin mời Đạo Sư về nhà con nghỉ ngơi, không phải ở nơi ngôi nhà hoang thế này”

Đức Phật đáp: “Này Hoàng Tử Mahali, Như Lai sẽ không lưu lại đây lâu ngày nên không cần phải thu xếp chỗ ở tiện nghi. Hơn nữa, này Hoàng Tử Mahali, đời sống của một vị Tỳ Kheo nên tự tại với hoàn cảnh, không nên lệ thuộc hay đòi hỏi hoàn cảnh theo ý mình.

Này Mahali, khi một người có phước, người ấy thường hay ở trong hoàn cảnh thuận tiện sung sướng, không bị mưa nắng làm khổ não, không bị thiếu ăn khát uống làm cho khổ não, không bị người chung quanh gây khổ não. Nhưng một vị Tỳ Kheo thường nhiếp tâm trong Thiền Định, hiểu rõ lẽ vô thường biến dịch, tâm tự tại với ngoại cảnh, cũng không bị khổ não với mưa nắng, ăn uống hay người chung quanh.

Này Mahali, phước con người khi tăng khi giảm, bởi vì chúng sinh tâm ý loạn động thiện ác bất chừng. Ai có thể kiểm soát được tâm ý mình mới có thể giữ gìn thiện pháp lâu dài. Này Mahali, tâm dẫn đầu các Pháp, tâm làm chủ mọi tạo tác. Ai hành động với tâm ác thì tội sẽ theo như bóng với hình. Ai hành động nói năng với tâm thiện thì phước sẽ theo như xe theo con ngựa.”

Hoàng Tử Mahali hoát nhiên tỉnh ngộ, quỳ xuống chắp tay thưa: “Bạch Thế Tôn, con đã thấy Pháp, con đã ngộ Pháp, tất cả những gì có sinh sẽ có diệt. Nay con xin Quy Y với Thế Tôn, Quy Y với Chánh Pháp của Thế Tôn, Quy Y với Chúng đệ tử của Thế Tôn, từ nay đến mạng chung con trọn lòng tôn kính.”

“Bạch Thế Tôn, con có khu đất ở Đại Lâm, con xin được cúng dường Thế Tôn để xây dựng Tịnh xá cho chư Tăng, cúi xin Thế Tôn tiếp nhận cho con.”

Đức Phật nói: “Này Hoàng Tử Mahali, hãy làm những gì ông nghĩ là thích hợp”.

Hoàng Tử Mahali liền trả lời: “Bạch Thế Tôn, con và Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) ở Kosala (Kiều Tất La) vốn là bạn học từ Đại học Takkashila, cũng có Bandhula con vua xứ Mallas nữa làm thành 3 người bạn thân thiết. Con và Bandhula thì không phải Thái Tử nên sẽ không làm Vua. Pasenadi thì đã lên ngôi, chúng con đều chuyên về chính trị, võ nghệ, tình báo, kinh tế. Hiện nay thì con có nhiệm vụ dạy lại cho các Vương tôn Hoàng Tử của Xứ Licchavi này. Bandhula thì trông coi một cánh quân cho Mallas. Bandhula võ nghệ siêu đẳng trên đời khó có ai bì.”

– Đức Phật nhắn nhủ: “Này Hoàng Tử Mahali, nghiệp dẫn dắt chúng sinh không lường được. Ông hãy tinh tấn tu hành, thường tọa Thiền để đắc các Thánh Quả. Chuyện mai sau không phải luôn luôn êm thắm…”

Ngài Nanda (Nan Đà) nói với Ngài Rahula (La Hầu La): “Này cháu Rahula (La Hầu La), thám tử là một nghề vô cùng vất vả, phải được rèn luyện khắc nghiệt, phải thành thạo nhiều kỹ năng đặc biệt, phải nói được nhiều ngôn ngữ, phải hiểu biết rất rộng, phải hiểu được tâm lý của mọi người, phải xông pha vào nơi nguy hiểm, phải diễn nhiều vai khác nhau khi cần. Rất mưu trí, mà phải làm sao giữ được lý tưởng phụng sự trung thành đất nước.

Này Rahula, từ nay ta sẽ dạy cháu cách liên lạc bằng ám hiệu mật hiệu. Ta sẽ dạy cháu những kỹ năng của thám tử, những kỹ năng để chỉ huy lực lượng thám tử. Cháu phải biết cách hóa trang biến thành người khác trong chớp mắt. Cháu có thể nói nhiều ngôn ngữ của các xứ, cháu có thể ghi nhớ các sự việc rất lâu,…”

Ngài Rahula (La Hầu La) xin đáp: “Thưa Tôn giả Nanda (Nan Đà), con nghe nói tôn giả ANanda (A Nan) có khả năng ghi nhớ rất siêu phàm, phải chăng Tôn giả ANanda (A Nan) cũng là thám tử?”

Ngài Nanda (Nan Đà) trả lời: “Này Rahula, Tôn giả ANanda (A Nan) cũng như mọi thanh niên của giai cấp Sát Đế Lợi đều phải rèn luyện chiến đấu. Một số nào xuất sắc thì được tuyển đào tạo thám tử với những kỹ năng cao cấp. Cả Tôn giả ANanda cũng như Anuruddha (A Nậu Lâu Đà), Kimbila (Kim Tỳ La),…. đều được học hỏi kỹ năng thám tử, võ nghệ tinh tường, biết nhiều ngôn ngữ, có trí nhớ bền bỉ.

Riêng tôn giả ANanda (A Nan) được thiên phú trí nhớ cực tốt. Cháu biết tại sao mà Tôn giả ANanda (A Nan) thích quấn quýt bên cạnh Thế Tôn không? Bởi vì ANanda (A Nan) muốn nghe và ghi nhớ thật nhiều lời dạy của Thế Tôn để thuật lại cho các bạn đồng phạm hạnh.”

Ven đường, đoàn phụ nữ dừng lại dựng lều đốt lửa, nghỉ qua đêm. Một người thám tử tới báo với Công Nương Yashodara (Da Du Đà La) rằng Đức Phật hiện ở cách đây 3 dặm đường. Thuộc hạ sẽ đặt những ám hiệu trên đường dẫn đến ngôi nhà hoang mà Thế Tôn và 50 vị Tôn giả đang trú ngụ. Mấy hôm nay có Hoàng Tử Mahali thường tới lui cúng dường vật thực, và che thêm mái cho các Tôn giả ở. Công nương khen vị thám tử và dặn rằng sáng mai sẽ theo ám hiệu để đến chỗ Thế Tôn.

Buổi sáng, đoàn phụ nữ lại thu dọn hành lý và lên đường. Đoàn đến bên ngoài khu nhà hoang. Đức Phật biết và liền nói với Ngài ANanda (A Nan): “Này ANanda, hãy ra ngoài bảo Đức Bà Pajapati (Bà Xà Ba Đề) và đoàn phụ nữ đến Kapilavathu (Ca Tỳ La Vệ) hãy về lại Sakiya, vì phụ nữ không thể xuất gia làm sa môn sống không nhà, đi khất thực được.”

Ngài ANanda (A Nan) ra ngoài và thưa: “Kính thưa Đức Bà Pajapati (Bà Xà Ba Đề) và Công Nương Yashodara (Da Du Đà La), Thế Tôn không đồng ý nhận người nữ xuất gia, vì Thế Tôn bảo người nữ cần phải được bảo vệ bởi gia đình, bởi cha, bởi anh, bởi chồng,… nên không thể sống không nhà và khất thực được.”

Đức Bà liền đáp: “Này Tôn Giả ANanda (A Nan), hãy bạch với Thế Tôn rằng chúng tôi, không còn gì để quay lại với Sakiya cả. Chúng tôi chỉ còn một con đường là đi theo Thế Tôn tới cùng trời cuối đất.”

Ngài ANanda (A Nan) ngần ngừ một chút rồi lại quay vào bạch Phật.

Đức Phật nói: “Này ANanda, hãy nói với Đức Bà Pajapati rằng người nữ không thích hợp với đời sống xuất gia vốn nhiều khó khăn, bất tiện, kém an toàn. Các vị hãy quay về.”

Ngài ANanda lại quay ra: “Thưa Đức Bà Pajapati (Bà Xà Ba Đề), Thế Tôn lo lắng cho người nữ không thể sống đời sống xuất gia vì quá thiếu thốn mọi thứ cần thiết như ngôi nhà kín đáo phòng vệ sinh tiện lợi, lò bếp hồng nấu ăn. Khu vực tránh xa trộm cướp và kẻ dâm tặc. Người nữ ôm bát đi lang thang khất thực cũng nguy hiểm nếu đi qua chỗ vắng vẻ. Thế Tôn không muốn Đức Bà và quý vị nữ giới ở đây phải chịu khổ như thế.”

Đức Bà: “Thưa Tôn giả ANanda, xin hãy vào bạch với Thế Tôn rằng chúng tôi dòng dõi Sát Đế Lợi đều có từng rèn luyện tự vệ phòng thân, cũng như rèn luyện chiến đấu gian khổ. Xin Thế Tôn hãy chấp nhận cho chúng tôi xuất gia với người. Chúng tôi sẽ chịu đựng được hết mà.”

Cuối cùng, Đức Phật dặn với Ngài ANanda (A Nan) là: “Này ANanda, tâm ý người nữ nhiều phiền não, cảm xúc, tình cảm ích kỷ, khó buông xả khoáng đạt, không thích hợp với một vị sa môn bao dung tự tại. Hãy bảo các vị quay về.”

Ngài ANanda (A Nan) thưa: “Thưa Đức Bà Pajapati và Công nương Yashodara, Thế Tôn lo lắng tâm ý của người nữ hay buồn giận bất thường, hay tủi thân và lo nhiều cho bản thân, cũng sẽ khó khăn trong đời sống xuất gia, phải sống trong môi trường toàn là người xa lạ ít có tình cảm thân thiết. Thế Tôn e ngại người nữ khó chịu đựng lâu dài hoàn cảnh như thế.”

Nhưng Đức Bà vẫn quyết nói: “Thưa Tôn giả ANanda (A Nan), xin hãy vào thưa với Thế Tôn là chúng tôi sẽ chấp nhận tất cả, miễn sao được xuất gia theo Thế Tôn hết cả cuộc đời mình.”

Ngài ANanda quay lại và xin thưa: “Bạch Thế Tôn, người nữ có khả năng chứng A La Hán không ạ?”.

Đức Phật trả lời: “Này ANanda (A Nan), nếu người nữ xuất gia thực hành đúng Chánh Pháp thì hoàn toàn có thể chứng A La Hán không thua gì người nam.”

Ngài Ananda (A Nan) ngay lập tức thốt lên: “Bạch Thế Tôn, nếu như vậy, con cúi xin Thế Tôn hãy độ cho Đức Bà Pajapati (Bà Xà Ba Đề), Công nương Yashodara (Da Du Đà La) cùng cả trăm cung nữ được xuất gia trong Chánh Pháp của Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, Đức Bà Pajapati là di mẫu của Thế Tôn, đã từng bồng ẵm, nuôi nấng, yêu thương Thế Tôn từ khi Thế Tôn hãy còn là hài nhi mất mẹ. Đức Bà Pajapati thực sự là một người mẹ cao cả vĩ đại của Thế Tôn và của tất cả chúng sinh này. Những công ơn mà Thế Tôn giáo hóa dạy dỗ cho chúng con đều mang theo một phần công lao khó nhọc của Đức Bà Pajapati trong đó. Chúng con được hạnh phúc trong giáo Pháp của Thế Tôn nên cũng muốn Đức Bà Pajapati cũng được hưởng những hạnh phúc như vậy.

Bạch Thế Tôn, Công nương Yashodara là một người vợ vĩ đại nhất trên thế gian này. Khi Thế Tôn rời bỏ hoàng cung lang thanh đi tìm đạo lý, khi Thế Tôn sống khổ hạnh rừng sâu. Công nương Yashodara chưa bao giờ rời khỏi Thế Tôn, luôn tìm cách hỗ trợ Thế Tôn đủ mọi thứ, luôn sống khắc khổ như Thế Tôn đang sống. Khi Thế Tôn đã thành Đạo bắt đầu giáo hóa, Công nương Yashodara luôn âm thầm tìm mọi phương cách để phụ giúp Thế Tôn.

Bạch Thế Tôn, bây giờ cung điện ở Kapilavathu (Ca Tỳ La Vệ) chẳng còn ý nghĩa gì với Công nương Yashodara khi mà người chồng kính yêu nhất, đứa con yêu thương nhất đã trở thành sa môn siêu thoát lang thang trên mọi nẻo đường. Đức Bà, Công nương và cả trăm cung nữ đã bỏ hết hài dép để đi bộ từ Kapilavathu (Ca Tỳ La Vệ) về đây, thật không còn điều gì có để cảm động hơn nữa. Nếu phải chết, chắc chắn Công nương Yashodara chỉ muốn được chết bên cạnh Thế Tôn và Sa di Rahula (La Hầu La). Con cúi xin Thế Tôn hãy độ cho Công nương Yashodara được xuất gia trong Chánh Pháp của Người.

Bạch Thế Tôn, cả trăm cung nữ ngoài kia đều là những người đã hầu hạ hoàng tộc Gotama một cách trung thành tận tụy. Bây giờ, họ chẳng biết đi đâu khi mà những người họ tôn kính nhất đã rời bỏ thế gian để xuất gia tu hành. Con cúi xin Thế Tôn hãy độ cho họ được xuất gia trong Chánh Pháp. Mà sự vi diệu cao siêu trong đó đáng cho tất cả chúng sinh đều được soi sáng.”

Đức Phật tuyên rằng: “Này ANanda, nếu Đức Bà Pajapati và những người nữ ngoài kia chấp nhận Tám Phép cung kính đối với Tỳ Kheo Tăng thì Như Lai sẽ đồng ý cho họ xuất gia. Này ANanda, thế nào là tám phép cung kính đối với Tỳ kheo Tăng?

Thứ nhất, dù Tỳ kheo Ni trăm tuổi Đạo vẫn phải cung kính Tỳ kheo tăng một tuổi Đạo.

Thứ hai, Tỳ kheo Ni không bao giờ được lớn tiếng nặng lời với Tỳ kheo Tăng.

Thứ ba, Tỳ kheo Ni không bao giờ được bắt lỗi, răn dạy theo cách bề trên đối với Tỳ kheo Tăng, mà ngược lại chỉ Tỳ kheo Tăng mt ới có quyền bắt lỗi, răn dạy cho Tỳ kheo Ni.

Thứ tư, để có thể xuất gia là Tỳ kheo Ni, người nữ đó phải được cả hai bên Tăng và Ni đồng ý, chứ không phải chỉ có bên Ni mà thôi.

Thứ năm, khi phạm tội nặng, Tỳ kheo Ni phải đến cả hai bên Tăng và Ni để sám hối chứ không phải chỉ sám hối bên Ni mà thôi.

Thứ sáu, cứ mỗi nửa tháng, bên Ni phải cầu học giáo Pháp với Tỳ kheo Tăng.

Thứ bảy, Ni không được ở nơi nào mà gần đó không có Tỳ kheo Tăng ở, để được kiểm soát và bảo vệ.

Thứ tám, cứ sau ba tháng an cư mùa mưa, Tỳ kheo Ni phải xin tự tứ với Tỳ kheo Tăng để xin sự đánh giá của Tỳ kheo Tăng về phẩm hạnh của mình. Này ANanda, nếu Đức Bà Pajapati và những người nữ ngoài kia chấp nhận tám phép cung kính đối với Tỳ kheo Tăng như thế thì Như Lai sẽ đồng ý cho xuất gia.

Ngài ANanda hạnh phúc thuật lại ngay: “Thưa Đức Bà Pajapati và Công nương Yashodara, Thế Tôn bảo rằng bây giờ thì Đức Bà và Công nương đều là dòng Sát Đế Lợi, đã từng được rèn luyện chiến đấu gian khổ, nhưng lâu dài về sau sẽ có những người nữ xin xuất gia mà chưa được phẩm chất Sát Đế Lợi như thế. Họ sẽ không chịu đựng nỗi sự khó khăn của đời sống sa môn, vì vậy Thế Tôn thiết lập tám phép cung kính đối với Tỳ kheo Tăng để tạo sự ổn định lâu dài cho Đại chúng. Nếu Đức Bà và Công nương chấp nhận tám phép cung kính này thì Thế Tôn sẽ vui lòng đón nhận Đức Bà và Công nương vào hàng ngũ sa môn.

Thưa Đức Bà và Công nương, tám phép cung kính đó là:… Ngài liền thuật lại tám phép cung kính ấy, chỉ đợi nếu Đức Bà và Công nương đồng ý thì Thế Tôn sẽ hoan hỉ đón nhận mọi người vào hàng ngũ xuất gia, một Bộ Chúng Ni hoàn toàn mới.

Đức Bà và Công nương Yashodara mừng rỡ nói: “Xin tôn giả hãy vào bạch với Thế Tôn là chúng tôi hoàn toàn đồng ý thọ trì tám phép cung kính này ạ.”

Ngài ANanda nhanh chóng trở vào bạch Phật, Ngài Rahula chạy lại đứng gần với Công nương Yashodara có vẻ quyến luyến lắm. Công nương bèn hỏi Ngài: “Tôn giả Sariputta đâu sao mẫu thân không thấy?”

Ngài đáp: “Thưa mẫu thân, Thế Tôn để Tôn giả Sariputta (Xá Lợi Phất) lại Tinh xá Jetavana ở Savathi để trông coi Tăng chúng ạ.Còn Tôn giả Moggalana (Mục Kiền Liên) thì ở Veluvana (Trúc Lâm) để trông coi Tăng chúng ở đấy.”

Nhưng Công nương chỉ nghe nói chứ chưa được gặp Ngài Moggalana (Mục Kiền Liên) bao giờ. Bên trong, Đức Phật nói: “Này ANanda, Này Nagasamala, các ông hãy sắp xếp cho Đức Bà và mọi người đúng phép, Như Lai sẽ ra làm lễ xuất gia cho họ.”

Ngài Upali (Ưu Pa Li) bạch rằng: “Bạch Thế Tôn, ai sẽ cạo tóc cho số người nữ này, vì nếu Tăng cạo tóc cho Ni thật không hay?”

– Đức Phật đáp: “Này Upali (Ưu Pa Li), Như Lai biết sẽ làm những gì cần phải làm.”

Ngài bước ra: “Xin kính thỉnh Đức Bà, Công nương tất cả quý vị bước vào sân và quỳ xuống, Thế Tôn sẽ ra làm lễ xuất gia cho quý vị.”

Mọi người quỳ chỉnh tề trước sân. Đức Phật xuất hiện với nét uy nghi, khiến bao người không khỏi dâng lên lòng thành kính và xúc động khôn tả.

Người tuyên rằng: “Lành thay, hãy đến đây sống một đời xuất gia đúng Pháp của Chúng Tỳ kheo Ni.”

Đức Phật vừa dứt lời thì bỗng nhiên tất cả tóc của mọi người rụng hết, y phục trên người biến thành Y ca sa màu nâu thô ráp, mọi người reo lên vui sướng. Lúc đó, chợt có rất nhiều người dân mang vật thực đến cúng dường.

Phật căn dặn với Ngài Nagasamala: “Này Nagasamala, ông hãy thông báo với các Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni rằng sáng mai chúng ta sẽ lên đường đi tiếp về phía Nam.”

– “Này Nanda (Nan Đà), ông hãy xem bên Chúng Ni đã dựng lều nghỉ xong chưa? Xong rồi thì ông hướng dẫn cho Ni chúng ngồi thiền đúng các đề mục nhé.”

Các Tỳ kheo Ni tọa thiền trong lều. Các Tỳ kheo Tăng tọa thiền quanh ngôi nhà hoang và dưới gốc cây…”

Sáng hôm sau, Ngài và Ngài Kimbila (Kim Tỳ La) nói chuyện về vấn đề ít mưa mà từ Kapilavathu (Ca Tỳ La Vệ) sang đến Vesali (Tỳ Xá Ly) này chẳng thấy hạt mưa nào. Các dòng sông thấp nước, các dòng suối bị ngưng chảy khiến việc lấy nước từ các khe đá cũng rất khó. Trước khi khởi hành về phương Nam, Ngài muốn tìm nước sạch cúng dường cho Thế Tôn và Đại chúng mà không biết lấy ở đâu.

Chợt Ngài Nanda (Nan Đà) đi tới nói: “Này các hiền giả, trận hạn hán này sẽ kéo dài rất lâu. Trên đường đi ta sẽ khó tìm nước nhiều như trước. Nhưng sáng nay tôi sẽ lấy nước ngay dưới lòng đất sâu này vì có một mạch nước rất tinh khiết đang chảy sâu dưới đây. Các hiền giả hãy lấy cái ghè chứa nước lại đây.”

Ngài Nanda (Nan Đà) dùng sức thần thông thọc tay sâu xuống lòng đất. Một dòng nước trong mát phun trào lên chảy vào chiếc ghè, hai tôn giả vui mừng gọi mọi người lấy bát đến lấy nước về uống.

Đức Phật dặn Ngài Upali (Ưu Pa Li): “Này Upali (Ưu Pa Li), từ đây ông hãy dặn đại chúng mang theo bên mình miếng vải lọc nước. Nước vừa được Nanda (Nan Đà) lấy lên rất tinh khiết thì không sao. Còn nước ở sông suối hoặc giếng khơi có chứa rất nhiều trùng cực nhỏ mà mắt người không thấy được. Vì thế trước khi uống hãy dùng vải dày lọc bớt trùng để khỏi bị đau bụng, và cũng như không sát sinh.

Phật cùng chư Tăng, và chư Ni lên đường, chợt Hoàng Từ Mahali đuổi theo và cúi xin: “Bạch Thế Tôn, cứ theo con đường này đi tiếp 10 dặm là khu vườn Đại Lâm của con. Con kính thỉnh Thế Tôn và đại chúng Tăng Ni ghé qua cho con được cúng dường vật thực hôm nay ạ.”

Phật im lặng nhận lời, Hoàng Tử Mahali lên ngựa chạy trước. Hoàng Từ Mahali đứng đợi và bẩm: “Bạch Thế Tôn, con sẽ xây dựng một ngôi giảng đường ở Đại Lâm để sau này Thế Tôn có về Vesali (Tỳ Xá Ly) sẽ thuyết pháp ở đây ạ. Con sẽ xây thật đẹp, hai tầng, có nóc nhọn. Phật và đại chúng ngồi thọ thực, có Hoàng Tử Mahali và tùy tùng mang cơm xớt vào bát cúng dường cho từng Vị.

Khi tiễn Phật và đại chúng ra đi, Hoàng Từ Mahali rớm nước mắt nói: “Bạch Thế Tôn, con thật là hổ thẹn đã không thuyết phục được Vua và quần thần đến yết kiến Thế Tôn. Chẳng hiểu sao các vị rất ngang bướng, tự cho văn hóa của Vesali (Tỳ Xá Ly) này hơn hẳn mọi nơi nên chẳng cần học của ai cả.”

Phật từ bi nói: “Này Hoàng Tử Mahali, tấm lòng của ông sẽ cứu được Vesali (Tỳ Xá Ly) về sau.” Phật và đại chúng ôm bát tiếp tục xuôi về phía Nam.

Một hôm, Phật và đại chúng đến khu Thị Tứ đông đúc, tiếng nói của người dân rất lạ. Ngài Rahula (La Hầu La) nghe ngôn ngữ rất khác, không hiểu nên hỏi Ngài Nanda (Nan Đà), Ngài nói đây là Xứ Anga (Ương Già). Nhưng Thế Tôn sẽ ở lại xứ này qua mùa đông. Vì thế Ngài Rahula sẽ có cơ hội học ngôn ngữ này, các Tỳ kheo khác cũng vậy. Thị trấn này tên là Bhaddiya, thủ phủ của xứ Anga (Ương Già). Phật dẫn đại chúng đi đến một khu vườn rừng bên ngoài thị trấn, cho mọi người sắp xếp chỗ nghỉ dưới những gốc cây. Cư dân Bhaddiya có vẻ hiếu khách, hay đến thăm và cúng dường vật thực cho Đoàn. Phật hay thuyết pháp cho các cư sĩ ở Bhaddiya nghe tại khu rừng ở tạm.

Một ngày nọ….

Người dân: “Bạch Thế Tôn, con tên là Mendaka, con rễ con là Dhananjaya, con gái của con là Sumana Devi, cháu ngoại con là Visakha vừa 8 tuổi. Gia cảnh của chúng con cũng khá thoải mái. Mấy hôm nay nghe tin Thế Tôn về thăm thành phố Bhaddiya này, chúng con rất náo nức. Hôm nay thu xếp được, chúng con đến đây xin được yết kiến Thế Tôn, và xin Thế Tôn cho chúng con vài lời dạy bảo. Con nghe nói Thế Tôn nói tiếng Anga rất giỏi.”

Phật đáp lời: “Lành thay, này thí chủ Mendaka, gia đình ông nhiều đời biết kính trọng các Bậc Thánh, biết bố thí cúng dường nên đời này được giàu sang, được mọi người kính trọng. Này Mendaka, có một sự thật mà chúng sinh nên biết. Đó là chúng sinh lưu chuyển theo nghiệp thiện ác vào các cõi. Này Mendaka, có một sự thật mà chúng sinh cần phải biết đó nữa là tất cả đều vô thường hoài diệt….”

Cô bé Visakha bất chợt quỳ xuống lễ Phật nói: “Bạch Thế Tôn, con là Visakha, con đã thấy Pháp, con hiểu rằng cái gì có bắt đầu sẽ có chấm dứt. Bạch Thế Tôn, con tôn kính Người tuyệt đối. Con xin được Quy Y với Thế Tôn, Quy Y với Chánh Pháp của Thế Tôn, Quy Y với Chúng đệ tử của Thế Tôn…”

Đức Phật nói rằng: “Này Visakha, chín năm sau con sẽ gặp lại ta ở một nơi khác, con sẽ là người hộ trì tăng đoàn đắc lực.”

Thí chủ Mendaka xin trả lời: “Bạch Thế Tôn, cháu Visakha tuy còn ít tuổi mà đã thông tuệ khác người, đức hạnh rất toàn vẹn.”

Cô hỏi: “Thưa Tôn giả Nanda (Nan Đà), cháu nghe không hết những lời đàm thoại vừa rồi, chỉ biết Thế Tôn có vẻ hoan hỉ, cô bé đó có biến chuyển nội tâm rất lớn.”

Ngài Nanda đáp: “Này Rahula, thật ra Thế Tôn vất vả đi cả một chặng đường dài đến đây là để tìm độ cô bé này.” Đêm xuống, Ngài Rahula vẫn rất siêng năng công phu tập võ điêu luyện, tuyệt đỉnh.

Buổi sáng, Tỳ kheo Ni Yashodara (Da Du Đà La) dắt một phụ nữ đến xin gặp Phật. Ngài Kondanna (Kiều Trần Như) nhìn thấy người phụ nữ liền mỉm cười bảo: “Này cô Sujatha, thật là phải thời, chúng tôi chờ cô đã lâu.” Đức Phật nói: “Lành thay, này Tỳ kheo Ni Sujatha, hãy đến đây. Lập tức tóc trên đầu Sujatha rụng hết, y phục biến thành Y ca sa đơn giản. Tỳ kheo Ni Sujatha đảnh lễ Phật trong nước mắt.”

Ngài Rahula (La Hầu La) hỏi: “Thưa Tôn giả Nanda, người phụ nữ này là ai mà các Tôn giả Kondana (Kiều Trần Như), Yasa (Da Xá), Vappa, Baddhiya có vẻ quý trọng quá vậy?”

– “Này cháu Rahula, Tỳ kheo Ni Sujatha vốn là một nữ thám tử của mẫu thân cháu. Nhận nhiệm vụ cải trang theo nuôi nấng chăm sóc cho Thế Tôn và năm anh em Kondanna (Kiều Trần Như) suốt 6 năm ở Uruvela cho đến khi Thế Tôn đắc Đạo. Sau đó Sujatha quay lại Kapilavathu (Ca Tỳ La Vệ) lập gia đình. Bây giờ nghe tin Thế Tôn cho người nữ xuất gia nên đã bỏ hết để tìm theo Thế Tôn xin xuất gia. Công đức của Sujatha rất lớn. Chuyện này cũng không nên cho ai biết cháu à.”


TẬP 18: NHỮNG NẺO ĐƯỜNG THIÊN LÝ

Ở Ấn Độ, không xa thành Rajagaha (Vương Xá), nước Magadha (Ma Kiệt Đà), tại thôn Sa La Đà, có một gia đình thuộc dòng họ Bà La Môn rất giàu có, đó là Ni Câu Lự Đà Kiệt Ba có tài sản có thể so sánh với Vua Tần Bà Sa La lúc bấy giờ. Ngài Kassapa (Đại Ca Diếp) sinh trong gia đình phú hào này, tuy sống trong gia đình khá giả và lại là con một nhưng ngài lại có chí nguyện xuất gia từ nhỏ, cha mẹ của ngài lại muốn ngài tìm một người vợ và sống một đời bình thường như bao người khác. Vì để cha mẹ vui lòng, nên ngài Kassapa đã đồng ý cưới vợ nhưng đưa ra một yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn của một người vợ để mong vừa không tìm được người như thế vừa không buồn lòng cha mẹ.

Vì thương con, nên cha mẹ của ngài đi tìm khắp nơi, cuối cùng cũng tìm được một cô gái, theo đúng yêu cầu của ngài Kassapa đưa ra, dung mạo đoan trang, phẩm hạnh cao quý tên là Bhadda (Bạt Đề) và một điều bất ngờ hơn khi ngài Kassapa gặp Bhadda là Bhadda cũng có chí nguyện xuất gia giống như ngài Kassapa (Ca Diếp), và cả hai đã cùng thỏa hiệp giả vờ làm vợ chồng trên danh nghĩa cho cha mẹ vui lòng nhưng vẫn giữ sự trong sạch cho nhau. Vài năm sau, khi cha mẹ ngài Kassapa qua đời, ngài đã quyết định từ bỏ tất cả để đi tìm Đạo. Ngài Kassapa và Bhadda thu xếp mọi việc ổn thỏa tại quê nhà, cả hai cùng lên đường đi đến thành Rajagaha để xin nguyện xuất gia theo Phật.

Buổi tối tại tịnh xá, khi các tỳ kheo bắt chân lên ngồi thiền, thì Công Nương Yashodara (Da Du Đà La) đang nhận các báo cáo từ đội thám tử, đã được hình thành và hoạt động từ thời Đức Phật còn là Thái Tử, người đã chỉ huy một đội mật thám rất tài giỏi, sau khi người xuất gia người đã giao việc quản lý đội mật thám lại cho Đức Bà Gotami (Kiều Đàm) và giờ đây người phụ trách chính là Công Nương Yashodara.

Tuy nhiên, hiện nay Công Nương đã xuất gia theo Phật và lại là ni giới, nên lãnh đạo đội mật thám sẽ có nhiều bất tiện, tôn giả Nanda sau khi chứng được A La Hán sớm đã biết rõ quá khứ vị lai về nhân duyên của ngài Rahula (La Hầu La) và những mật hạnh của ngài, nên đã đề xuất cho ngài Rahula sẽ là người thống lãnh đội mật thám sau này giúp Thế Tôn trên con đường giáo hóa. Tôn giả Nanda truyền dạy võ thuật cho ngài Rahula và rèn luyện cho ngài từng bước trở thành người có mật hạnh đệ nhất trong những đệ tử của Đức Phật.

Lúc này tại tịnh xá Trúc Lâm, tôn giả Kassapa đang nhặt từng mảnh vải nhỏ thì tôn giả Moggallana (Mục Kiền Liên) liền đến và hỏi: “Thưa tôn giả Kassapa, tôn giả đang làm gì vậy?”

Tôn giả Kassapa đáp lời: “Thưa tôn giả Moggallana, tôi đang nhặt những mảnh vải này từ bãi rác hoặc ven khu rừng, mang về giặt lại và may lại thành y cà sa ạ”.

Ngài Moggallana có lời khen ngợi về công hạnh của ngài Kassapa và sau này Ngài Kassapa được mệnh danh là Đệ Nhất Đầu Đà Khổ Hạnh trong mười vị đại đệ tử của Đức Phật.

Được tin thám tử báo về, trong lúc này, tại xứ Vesali (Tỳ Xá ly) hạn hán khô gắt, đồng ruộng khô cháy, lúa mất trắng, nạn đói đe dọa, bệnh dịch bắt đầu xuất hiện, cuộc sống người dân khổ sở, bệnh tật chết chóc tràn lan, nhiều người phải bỏ xứ đi nơi khác sinh sống. Tôn giả Nanda giải thích nguyên nhân sâu xa về những hậu quả trên tại xứ Vesali cho ngài Rahula chính là do họ bị tổn phước, vì khi Thế Tôn ghé qua xứ họ mà họ lại ngạo mạn không tiếp đón và chỉ khi nào người của xứ Vesali biết thỉnh cầu Thế Tôn đặt chân đến xứ của họ với tất cả sự kính trọng thì nạn của họ sẽ hết.

Tại cung điện của xứ Vesali, Đức Vua và toàn thể quần thần đang hoang mang vì nạn đói và hạn hán đang diễn ra, trong khi những nước lân cận vẫn có một ít mưa, chỉ riêng xứ Vesali là hoàn toàn khô hạn, nhiều ý kiến đưa ra phải chăng chúng ta đã làm điều gì bất kính dẫn đến tổn phước, nên phải chịu đại họa này. Hoàng tử Mahali đã thưa với Đức Vua về việc năm ngoái khi Đức Thế Tôn ghé ngang qua Vesali, chúng ta đã thờ ơ không tiếp đón, trong khi Thế Tôn là một vị Chánh Đẳng Chánh Giác và là Thầy của hai vương quốc lớn xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) và Kosala (Kiều Tất La).

Thật là phúc lạc lớn lao khi Thế Tôn ghé qua xứ sở của ta, vậy mà hoàng tộc của chúng ta đã ngạo mạn không nghe giáo pháp vi diệu của Thế Tôn nên con nghĩ đây chính là nguyên nhân làm ta tổn phước, nên hạn hán đã nặng nề hơn so với các nước khác. Quốc Vương sau khi nghe xong lời của Mahali, suy ngẫm lại thì quyết định cho Mahali sang thỉnh Thế Tôn về cứu tai ương cho xứ Vesali.

Hoàng tử Mahali vượt đường dài đến kinh thành Rajagaha (Vương Xá), sau khi gặp được Thế Tôn, hoàng tử trình bày tất cả sự việc của xứ Vesali và thỉnh cầu Thế Tôn đi một chuyến đến Vesali để cầu phúc cho xứ sở này. Đức Phật im lặng nhận lời.

Ngài Moggallana chuẩn bị thu xếp mọi thứ và mọi người lên đường. Điều vi thiệu thay, khi Đức Phật vừa đặt chân đến biên giới của xứ Vesali thì bỗng nhiên bầu trời kéo mây đen xịt, sấm chớp ầm vang, mưa tuôn xối xả, mọi người đều vui mừng. Trong thời gian nán lại Vesali, Thế Tôn có buổi thuyết pháp với toàn thể dân chúng, quốc vương và hoàng tộc. Khi mọi việc đã giải quyết xong, Thế tôn lại lên đường quay về Tịnh xá Trúc Lâm trong sự bị rịn của toàn thể dân chúng xứ Vesali.

Buổi tối tại tịnh xá Trúc Lâm, tôn giả Dippa đến gặp Thế Tôn và thưa về chuyện của Sa Di Rahula, là vì Sa Di còn nhỏ tuổi lại là con của Thế Tôn, nên đôi khi có những hành động nghịch ngợm và hay nói dối, sợ những hành động đó sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Thế Tôn.

Đức Phật im lặng một lúc rồi bảo với Dippa: “Này Dippa, ngày mai Như Lai sẽ gọi Rahula đến để rầy”.

Sáng sớm hôm sau, khi Sa Di Rahula đang ở trong phòng ngồi nghỉ với vài tỳ kheo, chợt Phật bước vào, Sa Di vội lấy ghế cho Phật ngồi và lấy nước cho Phật rửa chân, rửa chân xong Phật chừa lại một ít nước trong chậu và hỏi Sa Di Rahula: “Này Rahula, con xem chút nước thừa dùng để rửa chân này có còn dùng để uống được không?”

Sa Di trả lời: “Bạch Thế Tôn, dạ thưa không ạ”.

Đức Phật nói tiếp: “Đúng vậy, hạnh của kẻ nói dối cũng ít như chút nước thừa vậy, chỉ đáng đổ đi mà thôi”,

rồi Đức Phật lật úp chậu xuống và nói tiếp: “Việc nói dối cũng giống như cái chậu lật úp, không thể chứa đựng bất cứ điều gì, cũng không thể chứa đựng Chánh Pháp được”,

rồi Đức Phật lật ngửa cái chậu lên và nói tiếp: “Tâm của một kẻ nói dối sẽ trống rỗng như cái chậu này vậy, do vậy con phải ghi nhớ rằng, ta không nói dối dù nói để chơi đùa, một sa môn cũng phải phản tỉnh lại từng việc làm, lời nói và ý nghĩ của mình khi sắp làm, đang làm, hoặc đã làm, xem nó có hại mình, hại người hoặc là bất thiện thì nhất định không làm”.

Sa di Rahula chắp tay đảnh lễ ghi nhớ từng lời dạy của Đức Phật.


TẬP 19: NÚI THIÊNG

Cuối tập mười tám, tỳ kheo NAGASALAMA đã chấp ý mình, bỏ Thế tôn một mình trên đường đi khất thực và bị một nhóm sát thủ tấn công. Câu chuyện ấy làm cho tỳ kheo ni YASHODARA (DA DU ĐÀ LA) rất quan ngại và bà đã dặn con mình RAHULA (LA HẦU LA) phải tận lực gánh vác mật hạnh để hỗ trợ Thế tôn vì các nhóm ngoại đạo luôn tăng cường lực lượng vũ lực với ý đồ tiêu diệt tăng đoàn bằng gươm đao, nếu không dập tắt âm mưu thì có thể xảy ra chiến tranh tôn giáo đẫm máu.

RAHULA đã thưa trình với bà rằng: một phương án làm giảm thiểu sinh mạng giữa hai bên là cho các thám tử tập luyện khả năng lý luận thuyết phục: “Thần thánh ghét vũ khí giết hại, ai hay dùng vũ khí giết hại thì không phải là chúng dân của thánh mà chỉ là chúng dân của quỷ”, chỉ ra rõ âm mưu thật sự của giáo sĩ ngoại đạo là lợi dụng danh nghĩa thần thánh để biến tín đồ thành lực lượng chiến đấu, phục vụ cho lợi ích riêng họ và tín đồ ngây thơ dễ tin làm theo mà gây ác nghiệp nặng nề. Nghe vậy, tỳ kheo ni YASHODARA rất hài lòng, khen ngợi RAHULA đã dùng mật hạnh hộ trì cho Thế tôn hoằng hóa. Kết thúc buổi trò chuyện, 2 mẹ con tạm biệt nhau, YASHODARA đi về phía bên ni chúng, RAHULA quay lại bên tăng chúng.

Một buổi sáng, Thế Tôn đắp y mang bát chuẩn bị rời khỏi VELUVANA (TRÚC LÂM TINH XÁ) khất thực thì bỗng nhiên có một ông lão quần áo sang trọng đi vào tinh xá xin cho gặp Thế Tôn.

Khi gặp Đức Phật, ông liền quỳ xuống và hỏi: “Bạch thế tôn, thế gian là vô thường biến hoại, làm thế nào để giải thoát ạ?”.

Đức Phật đáp: “Này BAKULA (BẠC CÂU LA) hãy đến đây, tỳ kheo”, hốt nhiên ông đã ngộ pháp và xin được xuất gia trong pháp và luật của Người.

Sau đó, tôn giả MOGGALANA (MỤC KIỀN LIÊN) và các vị tỳ kheo khác đến chào mừng tân tỳ kheo BAKULA, đưa về lêu phòng hỏi chuyện rằng: “Này hiền giả bakula, tôi nghe nói hiền giả là người đã từng bị cá nuốt lúc vừa sinh ra, có phải thế không?”

BAKULA thưa đúng vậy và kể lại khi ông vừa sinh ra ở KOSAMBI, mẹ ông đã mang ông ra bờ sông YAMUNA để tắm thì liền bị con cá to đớp vào bụng. Con cá đó bơi ngược dòng sông lên tận BENARES (BA LA NẠI) thì bị đánh bắt bán cho một nhà giàu. Người nhà mổ bụng cá ra thì lạ thay ông vẫn còn sống, được gia chủ phú thương xem như đứa con của Thần và nhận ông làm con nuôi. Chuyện lạ đồn xa đến tai cha mẹ ruột của ông ở KOSAMBI nghe tin tìm đến và hai gia đình thỏa thuận xem ông là con chung sống cuộc sống rất sung sướng.

Khi ông nghe danh tiếng của Thế Tôn tự nhiên lòng ông rạo rực như tìm thấy nguồn cội thật sự và quyết tâm từ giã vợ con gia đình để tìm đến Trúc Lâm xin xuất gia. Vừa gặp ông thì Đức Phật như đã biết mọi chuyện, chỉ một lời nói của Đức Phật đã khiến ông ngộ nhập.

Tôn giả MOGGALANA đáp lại: “Này hiền giả bakula, có những hạng người không thể chết sớm, người có duyên làm vua, người có định nghiệp phải trả và người sẽ chứng a la hán”.

Sau đó, tôn giả Mục Kiền Liên phủi tóc và đắp ý cho Bạc Câu La và dặn ông hãy ở nhà nằm nghỉ, dùng thức ăn vì đi cả đêm mệt mỏi. Tám ngày sau, tôn giả BAKULA đã chứng A La Hán và được Đức Phật tuyên bố là tỳ kheo có sức khỏe đệ nhất, có phước về sự cường tráng của cơ thể.

Đức Phật và chư Tăng thọ thực trong hoàng cung Vua BIMBISARA (BÌNH SA). Sau khi Vua Bình Sa giới thiệu lần lượt từ Hoàng Hậu VIDEHY (VI ĐỀ HI) đến các hoàng phi PADUMAVATI (HỒNG LIÊN), KHEMA, CHELLANA, AMBAPALI – một kỹ nữ người xứ VESALI không chịu sống trong cung, PUNJAB – công chúa xứ PUNJAB, SILAVI và các con Vua như Thái Tử AJATASATTHU (A XÀ THẾ) đang học chính trị quân sự và tình báo để sau này lãnh đạo quốc gia, vương tử ABAYA (VÔ ÚY), vương tử JIVAKA (KỲ BÀ) đang học nghề thuốc.

Vua giới thiệu xong gia thế hoàng tộc của mình rồi xin Thế Tôn cho cả hoàng gia được quy y, được chúc lành.

Đức Phật đáp: “Này đại vương Bình Sa, bổn phận làm một vị vua thật nặng nề khi phải gánh lên vai sự no ấm của cả một đất nước.

Này đại vương Bình Sa, chỉ cần có một quyết định đúng thì vị vua cũng được phước bội lần vì quyết định đó đem đến lợi ích cho nhiều người. Cũng vậy, chỉ cần có một quyết định sai, vị vua cũng sẽ bị tổn phước trầm trọng vì quyết định sẽ gây tổn hại cho nhiều người.

Vì vậy, này đại vương Bình Sa, hãy thận trọng kỹ lưỡng từng chút một trước khi đưa ra quyết định, hãy hỏi ý kiến của những quần thần sáng suốt, hãy hỏi ý kiến của người cùng đinh cũng như người quý tộc, hãy cân nhắc so sánh từng điều nhỏ nhất rồi mới quyết định.

Này đại vương Bình Sa, thế gian không phải là chỗ ở lâu, phước lớn như thế nào rồi cũng có lúc phải hết, chỉ có thánh đạo giải thoát mới thật là bến bờ an vui vĩnh viễn.

Vì vậy, hãy tinh tấn tu tập theo chánh pháp, hãy tinh tấn thiền định để thoát khỏi trần lao…”

Theo sự sắp xếp của tôn giả MOGGALANA (MỤC KIỀN LIÊN), tỳ kheo MEGHIYA thay thế tỳ kheo NAGASALAMA làm thị giả cho Đức Phật. Khi Người và thị giả đi ra khỏi thành vương xá, có đi ngang qua một khu vườn Xoài xum xuê tuyệt đẹp của kỹ nữ AMBAPALI – một người thiếp của Vua Bình Sa, lúc đó tôn giả MEGHIYA đã khởi lên ý nghĩ được tĩnh tu trong khu vườn khả ái như thế này. Hai vị tiếp tục đi đến một khu rừng núi âm u và hoang sơ – là vùng núi MANKULA hoặc MAKUTA hoặc núi VEDIYA – là nơi Đức Phật thường ẩn tu thiền định trong một kiếp xưa và Người muốn lên hang INDASALA để an cư mùa mưa này. Vì quá sợ hãi các thú dữ trong rừng và không khí âm u hoang dại nên tỳ kheo MEGHIYA đã đặt bát của Đức Phật lên hòn đá bên đường dốc núi và quỳ lạy xin Thế Tôn cho lui về an cư tại khu rừng xoài của AMBAPALI.

Đức Phật một mình tiếp tục ôm bát đi lên núi, khi hết đường đi, Người bay lên không trung và bay đến một chiếc hang trên núi cao. Chợt có một thần nhân hiện ra xưng là Sơn Thần và xin được làm thị giả cho Thế Tôn, Người im lặng nhận lời, ngay lập tức Sơn Thần dùng thần thông dọn dẹp chiếc hang sạch sẽ, có tảng đá để nằm, có ghế ngồi, bàn đá, bình và ly nước bằng đá.

Ngày qua ngày, trời sáng rồi lại tối, nắng rồi lại mưa, Người vẫn ngồi yên bất động, chợt trong bóng chiều, ánh sáng chói lòa tràn ngập cả vùng núi MANKULA, dân làng quanh đó nghĩ rằng lửa ở trời xuống đốt cháy núi.

Và có một vị thần CÀN THÁT BÀ (THẦN ÂM NHẠC) bay đến trước cửa hang bắt đầu đàn và hát: “Hỡi em yêu, ta yêu em như một vị a la hán yêu thiền định, ta dành trái tim cho em như đệ tử của bậc chánh giác dâng hết lòng tôn kính lên ngài…”.

Đức Phật mỉm cười mở mắt hỏi: “Này PANCASIKHA (NGŨ KẾ), giọng ca và tiếng đàn của ngươi rất khéo hòa điệu, nhưng ở đâu ngươi có bài nhạc này?”.

Vị chư Thiên trả lời vì trước đây đã phải lòng Chư thiên nữ SURIYA – con gái Vua CÀN THÁT BÀ TIMBARU nhưng nàng không yêu lại, biết rằng nàng rất tin kính Phật Pháp Tăng nên đã sáng tác bài nhạc này để vừa bày tỏ tình yêu với nàng vừa chứng tỏ rằng cũng có lòng tin kính tam bảo.

Sau đó, NGŨ KẾ xin phép thưa có Thiên chủ Đế Thích SAKKA – Vua cõi Trời TAM THẬP TAM cùng với tám vạn thiên tử đang chờ ngoài kia xin được diện kiến Thế Tôn.

Đức Phật im lặng nhận lời, ngay lúc đó hang núi bỗng nhiên sáng choang và rộng mênh mông, Thiên chủ Đế Thích hiện ra cùng tám vạn thiên tử quỳ đảnh lễ Đức Phật và thưa rằng: biết Thế Tôn về núi MAKUTA này an cư là muốn dành thời gian cho Thiên Chúng cõi trời học hỏi (vì khi có Chúng tỳ kheo và cư sĩ vây quanh, chư Thiên chỉ đến tham vấn Thế Tôn chớp nhoáng vào giữa đêm thật chẳng thấm).

Đức Phật đáp: “Này VESALA – chúa tể cõi trời Sakka, hãy hỏi những gì ông muốn hỏi, Như Lai sẽ giải đáp cho ông”

“Bạch Thế Ttôn, con quan sát cả thế gian cõi trời, cõi người, cõi Càn Thát Bà, Aatula… Con thấy chúng sinh đều ao ước được sống trong cuộc đời hiền lành không hận thù, không chiến tranh, không ác ý với nhau. Nhưng cuối cùng chúng sinh vẫn chìm trong hận thù chiến tranh, ác ý với nhau không hề chấm dứt. Bạch Thế Tôn, con muốn biết chính kiết sử nào đã khiến chúng sinh không sống hiền lành tử tế với nhau được?”.

Đức Phật đáp: “Chính vì kiết sử ích kỷ và đố kỵ khiến cho chúng sinh dù muốn sống hiền lành tử tế với nhau vẫn không thể được, cứ dễ dàng khởi lên hận thù chiến tranh, ác ý với nhau”.

Vua Trời đáp: “Thật chí lý thay, con đã hết thắc mắc về điều này. Nhưng ích kỷ và đố kỵ do đâu sinh khởi ạ?”.

Đức Phật đáp: “Ích kỷ và đố kỵ do tình cảm ưa ghét, tình cảm ưa ghét do dục phát sinh, dục do suy tư động niệm phát sinh, suy tư động niệm do vọng tưởng phát sinh. Để có thể diệt trừ vọng tưởng, hành giả phải biết cái gì nên thân cận gần gũi, cái gì nên tránh xa lìa bỏ.”

Vua trời Đế Thích và tám vạn thiên tử đã được khai ngộ với pháp nhãn thanh tịnh: “Con vượt qua tham ái, con biết rõ chỗ tái sinh và có thể chọn chỗ tái sinh nếu muốn, con luôn có chánh niệm tỉnh giác trong tâm, con biết chắc mình sẽ giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Con không biết diễn tả lòng tôn kính của con đối với thế tôn ra sao cho trọn vẹn. Thế Tôn như ánh mặt trời chiếu vào thế giới này để cứu độ chúng sinh.”

Tại tinh xá Trúc Lâm, sadi RAHULA báo cáo với tôn giả NANDA về tình hình của Thế Tôn một mình ở vùng núi vì thị giả MEGHIYA bỏ mặc Người mà quay về vườn xoài của cô kỹ nữ AMPABALA để an cư mùa mưa.

Sadi muốn xin phép tôn giả để đi về núi hầu hạ Thế Tôn thì tôn giả Nanda trả lời rằng “Thế Tôn ở một mình trên hang núi cao là có ý riêng của người. Thế Tôn muốn dành 3 tháng mùa an cư này cho chư thiên cõi trời xuống thưa thỉnh giáo lý. Những ngày này thế tôn dùng thực phẩm do chư thiên cúng dường”.

Sadi RAHULA hỏi: “Giáo pháp mà Thế Tôn giảng cho Chư Thiên có khác gì với giáo pháp giảng cho loài người không ạ?”.

Tôn giả NANDA đáp: “Về căn bản thì giáo pháp cho Chư Thiên không khác giáo pháp cho loài người nhưng về sự sâu xa vi tế thì thế tôn giảng cho Chư Thiên những giáo pháp rất uyên áo vì trí tuệ tầm nhìn của Chư Thiên rất cao”.

RAHAULA tiếp tục hỏi tôn giả có nghe được Thế Tôn đang giảng gì không ạ?

Tôn giả NANDA đáp: “Nếu muốn, một vị A La Hán có thể nhập định để biết Thế Tôn đang ở đâu, giảng pháp gì, giảng cho ai. Vì vậy, những ngày qua, hầu như các vị A La Hán đều nhập định nghe Thế Tôn giảng dạy cho chư thiên tử.”

RAHULA thắc mắc các vị A La Hán là bậc vô học, không cần phải học nữa, tại sao các vị phải nhập định nghe Thế Tôn giảng?,

tôn giả NANDA tiếp lời: “Này Rahula, các vị A La Hán được gọi là vô học trên phương diện giải thoát tự thân, nhưng trí tuệ, sức sáng tạo, sự linh mẫn, tầm nhìn đến tương lai, sự thiện xảo phương tiện thì còn kém xa Thế Tôn. Hơn nữa, biết lắng nghe bậc thầy của mình thuyết giảng cũng là một đạo đức của người đệ tử”.

Trong khi đó, để tránh việc các tân tỳ kheo ở nhà vì thế mà buông lung tu tập, tôn giả MOGGALANA đã mời tôn giả UPALI – Đệ nhất trì giới thuyết giảng về những điều nên làm và không nên làm đối với một tỳ kheo trong ba tháng Đức Phật an cư tại hang núi TỲ ĐÀ SƠN – INDASALA.

Tôn giả UPALI nói: “Kính bạch chư tôn giả, oai nghi của bậc thánh tự tâm lưu xuất một cách tự nhiên khiến chúng sinh nhìn vào tin tưởng quý kính. Nhưng một tỳ kheo chưa chứng thánh quả thì cần phải học để biết giữ gìn oai nghi quy tắc cho phù hợp với dòng dõi của thánh. Tỳ kheo phải biết luật nghi về sự kính lễ đối với Bổn sư của mình, sự tôn trọng đối với các bạn đồng phạm hạnh, biết oai nghi về sự đồng cư trong đại chúng. Tỳ kheo phải biết luật nghi về sự khất thực ở ngoài làng mạc thành thị, khi tiếp xúc với cư sĩ”.

Khi nghe tôn giả UPALI nói vậy thì một tôn giả thắc mắc quay sang hỏi tôn giả GAVAMPATI – KIỀU PHẠM BA ĐỀ rằng: “Sự giữ gìn luật nghi quá kỹ lưỡng như vậy có rơi vào giới cấm thủ (cố chấp) không ạ?”.

Tôn giả KIỀU PHẠM BA ĐỀ đáp: “Này hiền giả, chỉ gọi là giới cấm thủ khi ta xem luật nghi là cứu cánh mà quên mất mục đích giải thoát cuối cùng. Chỉ gọi là giới cấm thủ khi ta dựa vào luật nghi để bắt bẻ nhau, nói xấu nhau, thù ghét nhau, không có tình thương với nhau…”

(Chưa tóm tắt xong…)


TẬP 20: VÂN DU TỰ TẠI

Tập hai mươi tập hợp các câu chuyện hóa độ đầy thú vị của Đức Phật khi nhân duyên đã đủ đầy.

Mở đầu là câu chuyện Đức Phật độ đôi vợ chồng gia chủ Besam chứng quả Tu Đà Hoàn qua việc thuyết:

“Tấm thân nào cũng là sự kết hợp tạm bợ của đất nước gió lửa.

Tấm thân nào rồi cũng vô thường biến hoại, tấm thân nào rồi cũng già bệnh chết.

Tấm thân nào cũng là bất tịnh, ngày đêm bài tiết các chất tanh hôi. Tất cả những gì có hiện hữu đều phải có hoại diệt”.

Kế đến độ cho Pindola Bharadvaja (Tân Đầu Lư Phả La Đọa) – là con trai của vị cố vấn cho vua Udena (Ưu Điền) chứng quả Tu Đà Hoàn.

“Thân tâm này do tứ đại năm uẩn hợp thành, chẳng có gì bền chắc”.

Sau đó, Ngài chứng quả. Người cha cúng dường miếng đất ở Badarita làm tịnh xá.

Ở đó Đức Phật thuyết pháp: “Cuộc sống của chúng sinh bị chi phối bởi nghiệp. Ai làm những hạnh nghiệp lành sẽ sinh về nơi an vui, gặp những may mắn thu được những kết quả tốt đẹp. Ai làm những hạnh nghiệp ác sẽ phải sinh về nơi đau khổ, chịu nhiều bất hạnh, nhận lấy những kết quả đau đớn. Vì vậy hãy sống hiền thiện với thân, hãy sống hiền thiện với khẩu, hãy sống hiền thiện với ý”.

Nhóm du sĩ Sandaka hỏi so sánh sự khác biệt giữa giáo lý của Đức Phật và giáo lý khác.

Đức Phật và các tỳ kheo sẽ du hành lên phương Bắc. Bên bờ sông Sarabha, nước lũ đổ xuống, Đức Phật ra lệnh Gavampati (Kiều Phạm Ba Đề) ngăn cơn lũ, được các tỳ kheo trẻ khen nhưng khiêm tốn trả lời: “Nếu không có Thế Tôn thì chúng ta mãi mãi là kẻ si mê tăm tối”.

Đức Phật ra lệnh tỳ kheo về Savatthi (Xá Vệ) cư ngụ tại Kỳ Viên, gặp Sariputta (Xá Lợi Phất) và chờ Ngài. Đức Phật một mình đi về phía Bắc.

Lúc này tại Kosambi, tôn giả Pindola Bharadvaja (Tân Đầu Lư Phả La Đọa) thuyết pháp cho các cung nữ, đặc biệt là cung nữ Samavati và vua Udena (Ưu Điền). Tại đây vua Udena cũng xin quy y. Sau đó, Ngài về tịnh xá Trúc Lâm.

Đức Phật đến xứ Kuru và nghỉ ngơi tại gia chủ Bharadvaja. Tại đây du sĩ Magandiya (Tu Nhàn Đề) được gặp Đức Phật. Từ quan điểm chống đối, du sĩ đã bị thuyết phục khi Đức Phật thuyết rằng khi chúng sinh còn si mê vô minh thì việc hưởng thụ ngũ dục (tài, danh, sắc, thực, thùy) là sung sướng nhưng khi đã hết vô minh thì dục lạc chính là đáng sợ. Chỉ những ai từ bỏ dục lạc thế gian mới có thể tìm thấy nội tâm an tịnh.

“Không bệnh, lợi tối thắng

Niết bàn, lạc tối thắng

Bát Chánh, đường duy nhất

Đến bình an bất tử”.

Sau đó du sĩ xin được xuất gia.

Đức Phật đến gặp những người nông dân và thuyết:

“Như Lai có mảnh đất tâm hồn

Như Lai có con trâu tinh tấn

Như Lai có ngọn roi tự chế ngự

Như Lai có lưỡi cày trí tuệ”

Với sức con trâu tinh tấn, Như Lai đã cho lưỡi cày lật tung mảnh đất nội tâm của mình để bới hết gốc rễ vô minh, phiền não, vị kỷ, tham lam, sân hận. Như Lai đã gieo lên mảnh đất đó hạt giống từ bi trí tuệ, dũng lực, tinh cần. Như Lai đã nhổ hết cỏ dại của vọng tưởng bằng chiếc cuốc thiền định. Như Lai đã bón phân cho đất bằng công đức của đời sống vị tha. Kết quả là Như Lai hái được sự bất tử, ăn được bát cơm giác ngộ”.

Gia chủ Bharadvaja xin được quy y và cúng dường nhưng Đức Phật từ chối cúng dường vì việc nói pháp rồi nhận cúng dường là không phải truyền thống của các Đức Phật.

Tại tịnh xá Jetavana (Kỳ Viên) nhiều vị tỳ kheo và tỳ kheo ni hiện ra đảnh lễ Đức Phật.

Tôn giả Subhuti đang lặng lẽ nhập chánh định và Chư Thiên đang nghe bài pháp về Tánh Không của tôn giả.

“Ngài không nói về Tánh Không, chúng con cũng không nghe về Tánh Không, đó là Tánh Không chân thật”.

Lúc này, Rahula (La Hầu La) trình bày với tôn giả Nanda về tình hình lực lượng thám tử và tôn giả có nói về nhân duyên của Rahula và giải đáp thắc mắc.

Buổi chiều, vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) và phu nhân Malika (Mạt Lợi) xin ý kiến Đức Phật về câu chuyện con trai của quan tế sư. Đức Phật khuyên vua tinh tấn thiền, Ngài nói rằng: “Chuyện gì đến sẽ đến”.

Tại tịnh xá, Đức Phật thuyết pháp có người chứng được thiền nhưng vẫn không chứng được Thánh Quả. Đức Phật khẳng định chỉ trong pháp và luật của Như Lai mới có Bốn Quả Thánh và chỉ những ai đã có lòng tôn kính các đức Như Lai trong ba đời mới có đủ phúc duyên chứng nhập các Quả Thánh, còn lại những ai dù có nhập được thiền định có thần thông vẫn không thể chứng được các Quả Thánh để giải thoát. Một vị chứng Quả Thánh thì phá được các kiết sử, phát triển được đạo đức (thiện pháp) trong nội tâm, còn người chứng thiền mà chưa chứng thánh thì ác pháp, vẫn ngủ ngầm (tùy miên) chưa diệt trừ được.

Đêm tối, ngài Sariputta (Xá Lợi Phật) trình bày với Thế Tôn về khả năng thuyết pháp xuất sắc của ngài Punna Mantaniputta (Phú Lâu Na Mã Từ Tử), việc xây dựng đền thờ tại nơi thánh mẫu Maya hạ sinh Thế Tôn và về tỳ kheo Magandiya. Đức Phật nói lời nói giảng dạy là mấu chốt chủ yếu để khai ngộ tâm chúng sinh, nhưng nhiều khi chúng sinh phát tâm vì những nguyên cớ khác, ví như Moggalana (Mục Kiền Liên) hay dùng thần thông để làm việc.


TẬP 21: THIÊN NHÃN ĐỆ NHẤT

Sa Di Rahula (La Hầu La) bạch với tôn giả Sariputta (Xá Lợi Phất) mong muốn được viếng thăm ngôi đền thờ tại vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni) nơi Đức Phật đản sinh do tôn giả Punna Mataniputta (Phú Lâu Na Mã Từ Tử) xây dựng. Được sự chấp thuận, đến chiều các tôn giả Sariputta (Xá Lợi Phất), Nanda (Nan Đà), Ananda (A Nan), Devadatta (Đề Bà Đạt Đa), tỳ kheo ni Yashodara (Da Du Đà La) với vài tỳ kheo ni rời tịnh xá Jetavana (Kỳ Viên) đến Lumbini (Lâm Tỳ Ni).

Đến nơi, chư vị tôn giả được tỳ kheo Sattha (đệ tử của tôn giả Punna Mataniputta) đón tiếp và giải bày ý nghĩa về việc xây bờ tường bao quanh cây nơi ngôi đền. Tỳ kheo Sattha thưa rằng nơi vườn Lumbini sẽ là thánh địa muôn đời của chúng sinh nên cần được giữ gìn. Gốc cây vô ưu này là nơi Thế Tôn đản sinh bước ra từ hông bên phải của thánh mẫu Maya (Ma Da) khi Người cố với tay hái đóa hoa. Chính vì vậy, tôn giả Punna đã cho xây ngôi đền kế bên và rào bốn bức tường rào xung quanh để không ai vì ngu si mà đến chặt phá. Đoàn người rời khỏi ngôi đền, gặp tôn giả Punna Maniputta ở một tịnh xá đơn sơ và bày tỏ lòng ngưỡng mộ tới tôn giả.

Sau đó, đoàn người rời tịnh xá và đi đến lâu đài tại Kapilavatthu (thành Ca Tỳ La Vệ), gặp công chúa Sundari. Công chúa Sundari bày tỏ lòng muốn xuất gia theo Thế Tôn và được đoàn người đưa về tịnh xá Jetavana (Kỳ Viên).

Một buổi sáng, Đức Phật cùng các vị tỳ kheo đi khất thực thì chợt Ngài dừng lại. Tôn giả Sariputta hiểu ý Đức Phật nên quay lại nói các vị tỳ kheo rằng Đức Phật muốn đi khất thực một mình. Đức Phật đi đến khu nhà của một vị Bà La Môn tên Aggika. Vị Bà La Môn từ xa thấy Đức Phật và bảo cháu mình rằng đầu tóc dùng để phân biệt đẳng cấp xã hội, và kẻ nào không được chăm sóc đầu tóc cẩn thận thì chỉ là kẻ bần tiện. Đức Phật bước đến và hỏi vị Bà La Môn: “Ông có biết những yếu tố gì tạo nên một kẻ bần tiện không?”

– Ai nóng nảy thô động, gặp việc không trầm tĩnh, hay nói lời thô tục, đó là kẻ bần tiện.

– Ai tham lam ích kỉ, thấy gì cũng muốn lấy, chẳng ra tay giúp ai, đó là kẻ bần tiện.

– Ai nói dối ba hoa, lừa lọc và gian xảo, khoe khoang và hợm mình, đó là kẻ bần tiện.

– Ai bất hiếu bất nghĩa, chẳng phụng dưỡng mẹ cha, chẳng đền đáp nghĩa tình, đó là kẻ bần tiện.

– Ai làm điều lầm lỗi, nhưng lại chẳng thấy lỗi, chẳng sinh lòng hổ thẹn, đó là kẻ bần tiện.

– Ai tà dâm bất chính, lang chạ đủ hạng người, chẳng luân thường đạo lý, đó là kẻ bần tiện.

– Ai tham ăn tham ngủ, thích hưởng lạc tự thân, sống tầm thường qua ngày, đó là kẻ bần tiện.

– Ai thích chê người khác, để cho mình là cao, không biết tôn trọng người, đó là kẻ bần tiện.

– Ai phỉ báng Đức Phật, đệ tử của Phật dù xuất gia tại gia, đó là kẻ bần tiện.

– Ai nuôi thú trong nhà, thân thiết như ruột thịt, rồi xẻ thịt mà ăn, đó là kẻ bần tiện.

– Bần tiện hay cao quý, chẳng phải vì đầu tóc, chẳng phải vì dòng tộc, mà bởi vì hạnh nghiệp, những ai với hạnh nghiệp nghiệp trong sáng và hiền thiện, khi bỏ báo thân này, cỡi xe trời mà bay.

– Những ai nhập thiền định, diệt ngã chấp vô minh, đầy đủ sáu thần thông, chính là bậc tôn quý.

– Thế gian bị thiêu đốt, bởi ngọn lửa vô thường, thế nên hãy tinh tấn tu hành trong Chánh Pháp để đến bến bờ an vui.

Vị Bà La Môn ăn năn, sám hối và xin quy y với Thế Tôn với lòng tôn kính mãi mãi.

Trong tịnh xá Jetavana (Kỳ Viên), tôn giả Ananda (A Nan) hỏi tôn giả Sariputta rằng tại sao cùng là A La Hán nhưng từng vị tôn giả lại có danh hiệu khác nhau như tôn giả Sariputta là Trí Tuệ Đệ Nhất, tôn giả Moggallana (Mục Kiền Liên) là Thần Thông Đệ Nhất.

Tôn giả Sapriputta giải thích rằng các vị A La Hán đều đồng nhau trên phương diện giải thoát, đều có đủ Tam Minh, đều không bị tái sinh, đều diệt trừ vô minh chấp ngã nhưng các vị A La Hán vẫn còn sai biệt nhau ở những phương diện khác do bởi nhân duyên riêng từ nhiều kiếp trước. Như tôn giả Moggallana do nhiều kiếp mạnh mẽ xông pha vào tình thế nguy hiểm để làm công đức nên thành tựu thần lực vượt trội. Tôn giả Moggallana còn có thể nhìn chúng sinh trong các cõi giới khác rõ ràng hơn mọi người. Những người bình thường có duyên đặc biệt có thể nhìn thấy chúng sinh ở cõi giới khác nhưng chỉ là chúng sinh cõi ngạ quỷ gần quanh mình. Chỉ những bậc chứng Quả Thánh hoặc chứng thiền định sâu xa mới thấy cõi giới khắp đại thiên thế giới. Bình thường thì chỉ một vài vị nhìn thấy chúng sinh cõi giới bên kia chứ không phải ai cũng nhìn thấy.

Trong tịnh xá Kỳ Viên, trưởng giả Sudatta (Cấp Cô Độc) mời Thế Tôn và Chư Thánh Tăng về nhà cúng dường trai phạn. Sau khi thọ trai, Đức Phật thuyết pháp cho mọi người nghe. Giống như một ngôi nhà nóc nhọn, mà mái lợp không được bảo hộ, giữ gìn kỹ lưỡng thì nước mưa sẽ lọt vào. Khi nước mưa đã lọt vào rồi thì trước hết là rui mè bị thấm ướt, kèo cột bị thấm ướt, vách phòng bị thấm ướt, nền sàn bị thấm ướt. Khi rui mè, kèo cột, vách phòng, nền sàn bị thấm ướt thì chúng sẽ dần bị mục rã hư hại. Khi chúng bị mục rã hư hại thì toàn bộ ngôi nhà bị sụp đổ.

Cũng giống như vậy, tâm hồn một người không được bảo hộ giữ gìn kỹ lưỡng thì tham dục và lỗi lầm sẽ lọt vào. Khi tham dục và lỗi lầm đã lọt vào rồi thì thân nghiệp sẽ chìm ngập trong lỗi lầm, khẩu nghiệp và ý nghiệp sẽ bị chìm trong tham dục và lỗi lầm. Khi thân khẩu ý chìm trong tham dục và lỗi lầm thì sẽ đi đến hủ bại hư hỏng. Khi thân, khẩu, ý dần dần hủ bại thì sự kết thúc của toàn bộ cuộc đời người đó là mạng chung khốn khổ, chết khó khăn, chết xong đọa vào ác đạo. Vì vậy, hãy khéo bảo hộ giữ gìn tâm hồn kĩ lưỡng để tham dục và lỗi lầm không lọt vào.

Khi Đức Phật tới thuyết pháp tất cả người thân, gia nhân, người hầu trong nhà trưởng giả đều tới bái lạy và nghe Thế Tôn thuyết pháp trừ bà quản kho Tamba. Do đó, Đức Phật đã cử Rahula sáng hôm sau tới nhà của Sudatta gặp bà quản kho mà khất thực. Do nhân duyên kiếp trước là mẹ con nên Sa Di Rahula độ được bà quản kho quy y Tam Bảo.

Một buổi sáng, Thế Tôn ôm bình bát ra khỏi Jetavana hướng về nước Vajji (Bạt Kỳ). Trên đường đi, bỗng có em bé từ trong rừng chạy ra nước mắt giàn giụa. Tôn giả Anuruddha bước tới bé trai hỏi thăm và giúp em bé cứu cha mẹ khỏi tay bọn cướp. Khi quay đi, tôn giả nói với các tên cướp rằng nghiệp báo chi phối kiếp người, nếu làm điều ác chết sẽ đọa súc sinh, ngạ quỷ hay địa ngục. Chỉ khi nào các người biết sống hướng thượng thì mới chết sinh về thượng giới hay làm người với nhiều phước báu. Tôn giả Anuruddha cùng cặp vợ chồng và bé trai về nhà họ tĩnh tu, nhập định bất động suốt nhiều ngày.

– Ánh hào quang từ gương mặt Ngài xuyên qua lòng đất chiếu thấm xuống tận địa ngục nơi chúng sinh bị giam cầm hành hạ do khi sống chúng sinh đã tạo vô số ác nghiệp mà kiêu mạn chẳng bao giờ biết lỗi của mình.

– Ánh hào quang chiếu khắp cõi đất thì những vong linh xấu xí gớm ghiếc vật vờ khắp mọi nơi, lang bạt ở gốc cây, bụi bờ, gầm cầu, tập họp thành từng nhóm tranh giành nhau xác thối động vật, hay bãi bài tiết từ động vật. Có những vong linh vì quá đói khát mà chui vào bụng súc sinh để mong sống được yên lành. Ngài thấy những chúng sinh khi sống lãng phí đổ bỏ thức ăn, hoặc người chủ trả tiền bỏn xẻn cho công nhân, hoặc đối xử tàn tệ với súc vật trong nhà, hoặc vui đùa ném cà chua và sữa vào nhau khi chết đều thành chúng sinh đói khổ kêu gào.

– Ánh hào quang chiếu khắp cõi muôn thú thì Ngài thấy chúng sinh khi sống lang chạ bầy đàn, làm nghề giết mổ súc sinh, hoặc hống hách chửi mắng người, hoặc keo kiệt bủn xỉn giữ của, hoặc nói tục chửi lộn, đánh lộn lúc chết bị đọa đày làm súc sinh.

– Ánh hào quang chiếu vào cõi người thì Ngài thấy chúng sinh biết bố thí giúp đỡ thì trở nên giàu sang phú quý; người kiêu căng ngạo mạn đời sau hèn kém tầm thường; người cung kính bậc Thánh đời sau quan chức xênh xang; người xây chùa, xây trường học, xây bệnh viện đời sau nhà cao đất rộng; người cười nhạo kẻ tật nguyền đời sau bị tật nguyền giống vậy.

– Ánh hào quang chiếu lên các tầng trời cao thì Ngài thấy người làm quan tướng đánh trận oai, người có công xây cầu đắp đường nhưng nóng tính, người làm quan cai trị dân công minh tử tế nhưng không biết tu hành, thích tửu sắc chết sinh về cõi A Tu La, ở trong lâu đài kẻ hầu đầy đủ.

– Ánh sáng chiếu lên cõi trời, Chư Thiên đẹp đẽ cao lớn, ngự trong lâu đài, hào quang chiếu sáng. Ngài thấy người cung kính Tam Bảo, lễ Phật, tụng kinh, ngồi thiền, giúp người nghèo, cúng dường chư tăng, chết sinh về cõi trời dung sắc tuyệt đẹp.

• Tầng trời Tứ Thiên Vương, Chư Thiên đẹp nhưng khung cảnh chung quanh đơn giản, vì Chư Thiên ít làm phước, chỉ tu thiền tự tâm.

• Tầng trời Đế Thích thì lộng lẫy vì phước ngập tràn.

• Tầng trời Sắc Giới thì Chư Thiên đã hết bản năng tình dục.

• Tầng trời Phạm Thiên thì Chư Thiên to lớn, hào quang chiếu rất xa, Chư Thiên cực kỳ thanh tịnh.

• Tầng trời Tha Hóa Tự Tại có những Chư Thiên có phước cực kỳ lớn nhưng thủ đoạn, tham vọng, ta hay gọi là Ma Vương.

• Tầng trời Vô Sắc Giới thì Chư Thiên không còn hình hài để nhìn thấy, chỉ tồn tại một cõi tâm bao la, nhưng vẫn chưa giải thoát niết bàn.

– Ánh hào quang chiếu vào vô tận vũ trụ thì Ngài thấy những hành tinh có những giống loài rất thông minh và cũng có Đức Phật hay Bích Chi Phật hiện thân giáo hóa.

Tôn giả nhớ lại kiếp xưa là một tá điền nghèo nhưng nhịn đói, lấy phần ăn của mình cúng dường một vị Độc Giác Phật, nên được điền chủ cảm phục ban tặng tài sản. Tôn giả thấy ông chủ kiếp xưa hiện ở trong gia đình ở Vinjiha tên là Culla Sumana. Tôn giả Anuruddha xuất định, tạm biệt gia đình và hướng tới ngôi nhà mà Culla Sumana sinh sống. Tôn giả thuyết pháp cho cả nhà nghe về nhân quả và độ cho chú bé Culla Sumana xuất gia.

Trên đường về tinh xá Jetavana, tôn giả giải thích cho Sa Di Culla Sumana nghe về vũ trụ, mặt trời, các ngôi sao và hành tinh. Vũ trụ này có rất nhiều mặt trời như số cát con sông Hằng, mỗi mặt trời đều có các hành tinh quây quanh. Có rất nhiều hành tinh có sự sống, có muôn thú và con người cư ngụ, có cả các Đức Phật hiện thân giáo hóa chúng sinh. Nhưng tất cả cõi đất như thế chỉ là một trong tam giới vũ trụ mà mắt người nhìn thấy được, còn có các cõi giới địa ngục, ngạ quỷ, Chư Thiên mà mắt người không nhìn thấy được.

Sa Di Sumana hỏi tôn giả tam giới vũ trụ bắt đầu từ đâu và ngài trả lời rằng tam giới vũ trụ chẳng có bắt đầu. Nếu có bắt đầu thì thực ra trước đó vẫn có cái khác nên tam giới này chẳng hề có bắt đầu.

Sa Di Sumana lại hỏi tôn giả ai là người đầu tiên có mặt trên cõi đất này thì ngài trả lời rằng con người chỉ xuất hiện khi các điều kiện sống dành cho con người đã đầy đủ. Trước đó, các giống loài khác đã có mặt và bị buộc phải sống trong rừng, dưới nước. Khi Chư Thiên hết phước cõi trời bỗng thấy yêu thích cõi đất này nên gá vào thai một giống loài có hình thù gần với hình dáng Chư Thiên như loài vượn để sinh ra.

Những con người mới đó có hình dáng, suy nghĩ, trí tuệ khác với cha mẹ vượn, tự tách ra khỏi bầy đàn để sống sáng tạo. Nhiều nơi cũng có Chư Thiên sinh vào cõi đất như thế, họ gặp nhau và tạo lập gia đình. Loài người mới đó vẫn còn hiểu biết cõi trời, rất thông tuệ, đời sống của họ hơn cả con người bây giờ, nhanh chóng khuất phục các thú hoang để phục vụ cho mình.

Sa Di Sumana lại hỏi người xưa khờ dại, chỉ biết hái lượm, không có áo quần để mặc sao lại văn minh hơn người bây giờ. Ngài trả lời rằng chính những con thú bị con người khuất phục đem về ở chung gieo nhân duyên trở thành người, là con cháu của loài người đầu tiên. Những thế hệ gần ban đầu còn học được sự thông tuệ, nhưng những thế hệ sau trí tuệ rất kém. Tuy nhiên, qua nhiều thế hệ, con người từ cõi trời xuống và con người do thú đầu thai lên trộn lẫn phước với nhau khiến sự khác biệt chẳng còn mấy.

Tôn giả giải thích cho Sa Di Sumana nghe về nhân duyên kiếp này được tôn giả hóa độ. Đó là vì trong một kiếp xưa khi tôn giả là tá điền nghèo và sa di Sumana là vị điền chủ thì cả hai đã phát tâm tu tập theo vị Bích Chi Phật. Trong nhiều kiếp sau đó, tôn giả tu tập luôn nhỉnh hơn sa di Sumana khiến cho sa di Sumana nảy sinh lòng tôn kính từ nhiều kiếp khiến kiếp này trở thành đệ tử của tôn giả.

Tôn giả giải thích cho sa di Sumana nghe về công đức vô biên của Thế Tôn trong vô lượng kiếp như thừa sự cúng dường vô số các Đức Phật trong quá khứ, tận tụy hy sinh giúp đỡ chúng sinh, tinh tấn thiền định trong hang sâu rừng thẳm. Đạo đức và trí tuệ của Thế Tôn là vô lượng vô biên như vũ trụ bao la, thế nên đệ tử của Người phải hết lòng tôn kính đời đời kiếp kiếp.

Khi gần về tinh xá Jetavana, hai thầy trò nghe được âm mưu bày trò thi thố thần thông của những kẻ ngoại đạo muốn hạ uy tín của Tăng đoàn và lôi kéo quần chúng. Thế Tôn biết được và nói với chư tăng rằng cái gì chân thật sẽ tồn tại, cái gì hư ngụy sẽ tiêu vong.


TẬP 22: ĐẠI SỰ NHÂN DUYÊN

Tại kinh thành Rajagaha (Vương Xá), khi các ngoại đạo đang thi nhau thể hiện thần thông vào ban đêm để lôi kéo tín đồ, thì Thế Tôn vẫn bất động và các đệ tử của người cũng không có động tĩnh gì.

Một ngày nọ, ngài Upasena là anh của Upatissa, tức là tôn giả Sariputta (Xá Lợi Phất) tới gặp Sariputta. Vì có niềm tin vào em mình, ngài Upasena cũng xin xuất gia sau khi nghe Thế Tôn thuyết giảng. Một lúc sau thì em trai Maha Cunda của tôn giả Sariputta cũng đến, sững sờ trước quyết định xuất gia của anh mình – Upasena nhưng cũng có niềm tin vào hai người anh, ngài cũng đã xuất gia theo Thế Tôn.

Còn tại cung Vua Bimbisara (Bình Xa), các thám tử biết được kế hoạch của các ngoại đạo, các vị thay nhau theo dõi động tĩnh của họ. Mặc dù không nhận ra được thủ thuật trong đêm tối của các ngoại đạo, nhưng phát hiện gương mặt gian dối của họ, Sa Di Rahula (La Hầu La) được ngài Nanda cho phép kêu gọi thử thách thi triển thần thông vào ban ngày. Ngay khi đó, trưởng giả Maluta đã thách các sa môn, đạo sĩ tất cả giáo phái thi nhau bay lên không để lấy được bình bát bằng bạc treo trên cây sào hai mươi mét. Do tất cả thần thông của ngoại đạo đều là sắp đặt, nên ai cũng trốn tránh thử thách và kiếm phương tiện khác để không phải bay lên không như thế. Cũng do thế mà trưởng giả Maluta đã cười nhạo và khinh thường tất cả, kể cả Thế Tôn vì cho rằng Thế Tôn không có gì cả.

Thấy vậy, ngài Moggallana (Mục Kiền Liên) bèn bảo ngài Pindola Bharadvaja (Lân Đầu Lư Phả La Đọa) bay lên và nhận lấy chiếc bát ấy. Sau đó ngài Pindola Bharadvaja nhập định trên một tảng đá lớn cỡ một tấn và bay thẳng tới Rajagaha. Mọi người ở đó ai cũng tận mắt chứng kiến được ngài Pindola Bharadvaja bay xung quanh và lấy chiếc bát trên cao hai mươi mét ấy trả xuống cho trưởng giả Maluta. Tin tức làm chấn động cả kinh thành, khiến cho rất nhiều tín đồ từ bỏ ngoại đạo rồi hướng về kinh xá Trúc Lâm, nơi Thế Tôn đang ở đó. Tất nhiên, sự việc cũng được đại vương Bimbisara thuật lại cho Thế Tôn.

Nhưng Thế Tôn bảo rằng:

“Thật là không hay chút nào khi một tỳ kheo ngồi trên một tảng đá bay vòng vòng trên phố thị như thế. Hình ảnh đó chẳng khác nào một gánh xiếc bày trò mà hằng năm vẫn về kinh thành này biểu diễn”.

“Này đại vương Bimbisara, một bậc Thánh phải thi triển thần thông một cách đĩnh đạc, uy nghi và chỉ thi triển thần thông để giáo hóa chứ không phải để biểu diễn”.

Và Thế Tôn cũng cấm tỳ kheo thị hiện thần thông như thế nữa. Cũng chính vì Thế Tôn quở trách vậy nên các ngoại đạo đã lợi dụng rêu rao nói xấu.

Trước tình hình đó, Sa Di Lahula (La Hầu La) rất lo lắng đã tìm hỏi ngài Nanda và Ngài đã nhắc đến một Đại Sự Nhân Duyên lớn trong đời hoằng hóa của Thế Tôn sắp diễn ra.

Về ngài Sa Di Rahula, ngài vẫn âm thầm luyện tập võ nghệ và ngồi thiền để gia tăng nội lực trong võ công.

Một lần khi đi khất thực với tôn giả Nanda, Rahula đã gặp một đám cướp, ngài đã có cơ hội thể hiện được võ công cao cường mà trước đây Rahula chưa có cơ hội thực chiến. Nhưng dù đánh bại được đám cướp đông và hung hãn, nhưng vẫn chưa đạt được như ngài Nanda vì ngài có thể dùng một cú đá mà phạt gãy thân cây ba năm.

Sau sự quở trách của Thế Tôn, những kẻ ngoại đạo dựa vào đó mà chống lại chư tăng và đưa ra lời thách thức thi đấu phép thuật với Đức Phật. Đức Phật đã tuyên bố sẽ thị hiện thần thông dưới gốc cây xoài Ganda vào mùa an cư tới…

Nhưng đại vương Bimbisara đã hỏi Thế Tôn rằng: “Thế Tôn cấm đệ tử nhưng tự mình thi triển thần thông, như thế là bất nhất với lời nói chăng?”

Thế Tôn bảo: “Này đại vương Bimbisara, có những nơi trong hoàng cung cấm người ngoài vào, như vườn thượng uyển, cung cấm, kho vàng bạc châu báu, nhưng đại vương không hề cấm chính mình vì đó là đặc quyền của một Bậc Đế Vương, Như Lai cũng vậy, Như Lai biết rõ phải cần làm điều gì cho thích hợp…”

Các ngoại đạo biết sự tuyên bố của Đức Phật đã truy lùng và chặt hết tất cả cây xoài hiện diện nơi đó để Thế Tôn không còn gốc cây xoài nữa thì làm sao có thể thị hiện thần thông được.

Mặc cho việc chặt phá tất cả cây xoài được tiếp diễn, Thế Tôn vẫn lặng lẽ ôm bình bát đi khất thực. Có một hiền giả tới hỏi ngài Kassapa (Ca Diếp) về việc Thế Tôn ôm bình bát đi khất thực dù phước lực vô hạn của Người có thể hưởng vật thực được cúng dường ngay tại tịnh xá.

Ngài Kassapa trả lời rằng: “Này hiền giả, Thế Tôn muốn làm tấm gương tinh cần cho các đệ tử muôn đời sau. Hơn nữa, có khi Thế Tôn muốn nhân dịp đi khất thực rồi tìm những người có duyên hóa độ luôn”.

Ngày đó cũng tới…

Biết được Thế Tôn sắp đi về Kosala, tất cả tỳ kheo đều mong được đi cùng Ngài, chỉ để lại vài vị A La Hán trông coi tịnh xá. Theo sau Đức Phật là một đoàn tỳ kheo dài dằng dặc, đi vài đoạn lại có cư sĩ gia nhập vào đi chung thành một dòng người dài bất tận. Đi tới bờ sông Hằng, nhờ thần lực của tôn giả Moggallana, hàng trăm chiếc bè lần lượt xuất hiện đưa đoàn người lần lượt qua sông. Cả nửa buổi mới xong và trời cũng đã tối.

Khi vào trong làng, ai nhìn thấy Đức Phật cũng không tiếc lời tán thán và cung kính vẻ đẹp tuyệt đối của Người. Nhiều người đã khăn gói tức tốc cùng đi chung để chứng kiến Đại Sự Nhân Duyên này. Và cứ thế, dòng người từ nhiều hướng đổ về.

Tới một bãi đất trống, người ngồi kín cả khu đất rộng lớn không sao tính xuể. Nơi mà các cây xoài đã bị đốn hạ hết, thời tiết thì rất nóng nực, không một bóng râm.

Bỗng có một chàng trai đi tới ôm một trái xoài chín đẹp cung kính dâng lên Đức Phật khiến mọi người sửng sốt. Sau khi biết tên chàng trai này là Ganda, thì ai cũng càng thản thốt kinh hoàng. Điều kỳ diệu xuất hiện lúc mà không ai ngờ tới…

“Này Ganda, Ta nghe nói các cây xoài đều bị ngoại đạo chặt phá hết cả, tại sao cây xoài của con không bị chặt?”

“Bạch Thế Tôn, cây xoài của con hãy còn nhỏ, mọc ở góc tường trong khu vườn riêng nên không bị ai để ý ạ”.

Khi ngài Ananda gọt xoài xong thì thì toan vứt bỏ hạt xoài thì được Thế Tôn ngăn lại và hạt xoài được gieo xuống đất. Với thần lực của Đức Phật, bỗng mầm cây xoài lú lên và vươn thật cao trước sự kinh ngạc của tất cả mọi người. Cây xoài mọc cao, bóng râm của cây đủ che cho tất cả mọi người có mặt ở đó. Đức Phật tiếp tục thị hiện thần thông, hoa xoài mọc chi chít, từ đó mọc ra những trái xoài dần chín mọng, chúng bắt đầu tách khỏi cành và rơi nhẹ trước mặt tất cả mọi người. Hàng ngàn người ở đó, ai nấy đều có một trái xoài cho riêng mình trong niềm hân hoan tột độ.

Đức Phật bắt đầu dang hai tay và một vầng sáng vàng hiện ra thành con đường cong cong bắt đầu từ chỗ Đức Phật nối dần lên trời cao, Chư Thiên tấu nhạc vang lừng, ai ai cũng nín thở nhìn theo Thế Tôn. Có một vài cư sĩ tài ba bất ngờ thưa với Thế Tôn xin cho tự mình hiện thần thông để chứng tỏ Thế Tôn xuất thế hơn thế nữa, Thế Tôn không cần phải nhọc sức như vậy. Thế nhưng vì đây là Đại Sự Nhân Duyên của Đức Phật, nên các vị đều từ từ lui xuống.

Đức Phật ở trên không hiện ra mưa như sương nhuyễn phun đều khắp mọi hướng khiến đất trời dịu mát, các khe đất xuất hiện dòng nước chảy tràn bờ, cảnh như cõi địa đàng vô cùng xinh đẹp, những giọt mưa từ thân Phật rơi xuống đất mặt đất lập tức mọc lên các bãi cỏ xanh mướt, hoa dại lấm tấm nở ra. Cùng lúc đó các đệ tử A La Hán và A Na Hàm cũng cất mình lơ lửng giữa hư không khoảng ba mươi mét để chiêm ngưỡng thần thông của Đức Phật.

Rồi Đức Phật ngồi trên đài sen khổng lồ lơ lửng trên không, Ngài phân thân và ngồi trong vô số đài sen. Các đài sen bay vòng khắp cả bầu trời, bay tới đâu thì bầu trời hào quang đến đó. Rồi tất cả bay nhập lại thành một với Phật đang đứng trên con đường bằng ánh sáng giữa trời, bầu trời tối dần, sao sáng dần mọc ra. Rồi Đức Phật hiện ra vô số đốm lửa sáng rực ở khắp bầu trời. Cùng với tiếng nhạc trên trời cao cứ dìu dặt vang lên. Thân Phật hiện ra ánh sáng chiếu khắp bầu trời, chiếu xa tít tới chỗ các vì sao hiện rõ như các ánh mặt trời xa xăm.

Các thế giới xa xăm hiện ra trước mắt, khiến mọi người thấy được vô số cõi nước khác cũng có người, có Thánh Nhân, có tái sinh, có khổ đau, có chiến tranh, có đạo lý và có tu tập,…

Rỗi bỗng mọi thứ hiện ra đại địa có núi cao, biển cả và cả đại địa hình tròn rộng lớn bao la… Đó là lần đầu mọi người thấy mình ở trên cao, cao hơn cả tầng mây và những áng mây đủ hình thù bay ở dưới. Và họ thấy… thấy được biển cả, cá to như tòa nhà, thấy con sóng vỗ chập chùng với cơn bão xa có quầng mây xoáy tít, cả núi rừng, bạt ngàn loài vật.

Rồi từ tay Phật hiện ra sấm sét khiến đất trời kinh động, sau đó hiện ra đầy mây ngũ sắc bay vòng vòng, gió ầm ầm như cuồng phong và mưa như trút nước rưới mát tất cả mọi người.

Từ bàn chân Phật tỏa ra làn khói ấm thơm giúp hong khô áo quần rồi từ tay Phật hiện ra vô số đốm lửa tỏa khắp nơi để mọi người được sưởi ấm…

Phật lúc này bắt đầu thuyết pháp, bài pháp dường như cho mỗi người, ai cũng cảm thấy Phật đang thuyết cho mỗi mình nghe vậy thôi…

“Suốt cả đời ông vất vả cấy cày để nuôi tấm thân tứ đại, rồi tấm thân này sẽ tan hoại theo thời gian. Vậy hãy nhanh chóng khi còn khỏe mạnh cày xới tâm hồn mình, diệt trừ cỏ dại, gieo giống từ bi, ươm mầm thiện phúc…”

“Cả đời ông rong ruổi trên các nẻo đường để mua và bán các loại hàng hóa, việc mua bán này khiến ông lo lắng phiền muộn bao nhiêu, có khi phải đánh người, mắng người quá đáng. Có khi nào ông nghĩ vô thường sẽ đến bất ngờ khi ông vẫn còn trên xe chở đầy hàng, thân xác ông ngã gục, mọi tiền của không đem theo được…”

Đức Phật thuyết pháp cho từng người, cho Lasita, cho Bà La Môn Dameti, cho tỳ kheo Jaya…

Và Đức Phật tiếp tục bước đi trên con đường ánh sáng, Chư Thiên tung hoa trời cúng dường, Long Trời tung bay chào đón, Phật biến mất dần, con đường ánh sáng cũng mất theo…

Đức Phật sẽ ở trên cung trời Đao Lợi giáo hóa ba tháng để thuyết pháp cho Chư Thiên và thăm thánh mẫu Maya rồi mới về cõi người.

Dòng pháp đã thấm, thế là mọi người quyết tâm và đồng thanh ở lại, dù chết đói cũng đợi Thế Tôn quay về…


TẬP 23: VI DIỆU PHÁP

Đức Phật ngồi trên ngôi tòa bằng ngọc báu, ở giữa cõi trời rực rỡ. Chư Thiên ngập trùng trùng lớp lớp, ánh sáng hào quang sáng rực, cung điện to lớn vô tận, hương hoa thơm ngào ngạt, hoa trời tung bay khắp nơi. Đức Phật vì nhân duyên thăm mẫu thân Maya nên sẽ ở lại cõi trời Đao Lợi để tuyên thuyết cho Chư Thiên giáo nghĩa vi diệu mà suốt nhiều kiếp qua chưa từng tuyên thuyết cho loài người và Chư Thiên Tử.

Vua trời Đế Thích thưa rằng giữa loài người và Chư Thiên có rất nhiều sự khác biệt. Loài người không đủ thần lực để nhìn thấy nhiều cõi giới, không đủ tuệ nhãn để thấy sự tái sinh chuyển kiếp, không đủ tuệ nhãn để nhìn thấy nhân quả nghiệp báo từ đời này sang đời khác, loài người không thể nhìn thấy những gì Chư Thiên nhìn thấy.

Vua trời Đế Thích thưa rằng vì nhân duyên gì mà một vị Thiên Tử hay Tiên Nữ hết phước rồi lại sinh trở lại cõi người, và nhân duyên gì mà một vị Thiên Tử hay Tiên Nữ tiến mãi đến các tầng trời cao hơn cho đến khi nhập niết bàn để giải thoát.

Thế Tôn trả lời rằng do những phước báo mà đã gây tạo mà một Thiên Tử hay Tiên Nữ sinh về cõi trời này. Nhưng nếu khi gây tạo công đức mà vị đó có ý chấp công, tự khen mình thì sự thoái chuyển sẽ hình thành, vị đó sẽ hưởng phước cõi trời có hạn chứ không phải vô hạn. Ngược lại, nếu khi gây tạo các công đức, vị đó quên công không tự khen mình thì sự bất thoát chuyển đã hình thành, sau này khi sinh về cõi trời, vị đó có thể gieo ý mãn nguyện để tiến tu mãi cho đến khi nhập niết bàn để giải thoát mà không phải tái sinh lại vào cõi người.

Vua trời Đế Thích lại bẩm rằng trường hợp một vị Thiên Tử đã không còn thoái chuyển vì đã gây tạo được vô số công đức mà không chấp công nhưng vì một lý do gì đấy mà muốn xuống cõi người để thực hành Hạnh Bồ Tát, vị đó phải tái sinh vào thai mẹ và quên hết những ký ức tiền kiếp tại cõi trời để sinh sống một cuộc sống của người bình thường và phải tu học lại một thời gian vất vả.

Thế Tôn trả lời rằng khi một vị Bồ Tát từ cõi trời nhập thai, bắt đầu một cuộc sống mới từ phôi thai nên ký ức từ trước đều quên hết. Điều này khiến cho vị Bồ Tát ấy sẽ sống bình thường như mọi người, cư xử bình thường như mọi người. Thế nhưng, tâm nguyện mà vị đó khởi từ trước thì không bị mất, sẽ trở thành nhân quả dẫn dắt vị đó trong hình hài của con người, vị đó phải cố gắng tu học để vượt lên xuất sắc trong cõi người, trở thành người làm thay đổi suy nghĩ, thay đổi cuộc sống của rất nhiều chúng sinh.

Tuy nhiên, không phải vị Thiên Tử nào cũng đủ dũng lực và nhân duyên để phát nguyện sinh xuống cõi người để gieo duyên giáo hóa với chúng sinh. Nơi cõi người đầy sự bất trắc, nghịch cảnh, những thù ghét đầy phi lý, đầy sự ganh tỵ, oán thù chẳng cần nguyên nhân.

Vị Bồ Tát mới bày tỏ bản lĩnh là phải hứng chịu vô số sự gièm pha công kích. Đi hết một cuộc đời giáo hóa là vị Bồ Tát phải đi trên chông gai, đi trong lửa cháy. Nghị lực phi thường của một vị Bồ Tát cũng chưa đủ thực hiện hạnh nguyện cao cả mà còn cần nhân duyên với nhiều chúng sinh. Vị Bồ Tát đã từng gieo duyên lành với nhiều chúng sinh từ nhiều kiếp xưa để khi gặp lại được chúng sinh quy phục ủng hộ mà công hạnh của vị Thiên Tử đó không bị kẻ xấu phá hoại tan vỡ tất cả, vì còn có người gìn giữ kế thừa phát triển.

Chợt có vị Phạm Thiên hào quang sáng chói bay đến đảnh lễ Thế Tôn, cúi xin Thế Tôn khai thị cho Chư Thiên do nguyên nhân gì mà hiếm có vị Phạm Thiên sinh về cõi người để thực hành Hạnh Bồ Tát.

Thế Tôn trả lời rằng khi một vị Bồ Tát xuất hiện ở cõi người lập tức làm thay đổi nghiệp của nhiều chúng sinh. Nếu chúng sinh biết quý trọng sự hiện diện của Bồ Tát thì phước thọ họ tăng lên nhiều lần. Nếu chúng sinh khởi tâm đố kỵ, ganh ghét đối với Bồ Tát thì tội của họ cũng tăng lên nhiều lần, thậm chí có thể khiến họ đọa địa ngục. Chính vì lẽ đó mà một vị Phạm Thiên rất dè dặt khi tái sinh cõi người, thực hiện xuống cõi người thực thi Bồ Tát Đạo.

Vị Phạm Thiên Usha tiếp tục thưa rằng vì sao một Bồ Tát hiện thân tu hành đắc thành Chánh Giác chỉ đắc thành ở cõi người mà không đắc thành ở cõi trời.

Thế Tôn trả lời rằng nếu Như Lai đắc thành ở cõi trời thì cõi người không ai hay biết gì hết, không được lợi ích gì hết, không được giáo hóa gì hết. Còn khi đắc thành ở cõi người, thì tất cả cõi trời, atula, dạ xoa, thiên long, bát bộ chúng đều biết để được giáo hóa ở nhiều lợi ích. Chỉ chúng sinh đọa vào loài súc sinh thì không biết hoặc mơ hồ. Các loài súc sinh cũng nhận biết mơ hồ về sự hiện diện của một bậc thánh nhân gần chúng, nhưng không rõ ràng, không thể nghe và hiểu giáo pháp, không thể nhiếp tâm vào thiền định và càng không thể chứng thành thánh quả.

Chánh Pháp phải được tuyên thuyết bởi một Đức Phật hiện thân ở cõi người, có cha mẹ rõ ràng, có huyết thống dòng dõi, thân quyến đủ đầy. Như vậy, nhiều đời sau chúng sinh cõi người vẫn có thể kể lại sự ra đời của Đức Phật đó một cách chi tiết minh bạch như một bằng chứng sống động không thể chối cãi. Nếu có một thần linh, mỗi ngày lại hiện ra giữa hư không mà tuyên giảng đạo lý, ban đầu có thể khiến chúng sinh kinh ngạc, sùng bái nhưng lâu dài sẽ trở thành chuyện thần thoại cổ tích vô bằng chứng. Vì vậy mà một Đức Phật phải hiện thân giữa cõi người với cha mẹ quyến thuộc dòng dõi đầy đủ.

Thánh Mẫu Maya bạch Thế Tôn rằng, Thánh Mẫu vì công đức hoài thai Thế Tôn mà hưởng phước cõi trời, Thánh Mẫu xin Thế Tôn khai thị cho Người được nhập vào dòng Pháp, thấy được Pháp, chứng được Pháp để Thánh Mẫu thoát khỏi sinh tử luân hồi đau khổ.

Thế Tôn thuyết rằng cảm thọ hỷ lạc của cõi trời này chỉ là tạm bợ vô thường, nếu không giải thoát thì phước báo nào cũng đến lúc cạn. Những cảm thọ hỷ lạc của cõi trời Đao Lợi quá vi diệu sâu xa nên rất khó có Thiên Tử nào có thể nhận thấy nguồn gốc khởi động của nó. Thánh Mẫu phải lắng tâm thiền định để có thể nhận ra sự hình thành sâu xa của cảm thọ hỷ lạc này, sự biến đổi của hỷ lạc, nhìn thấy sự trống rỗng của hỷ lạc, nhìn thấy giới hạn của hỷ lạc.

Chính vì nhìn thấy rõ sự sinh diệt của hỷ lạc là một Thiên Tử không ái luyến cõi trời, không ái luyến các cõi, không ái luyến tam giới, có thể phát tâm tìm cầu sự thành tựu vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác không còn giới hạn.

Sau khi nghe Thế Tôn thuyết giảng, Thánh Mẫu đã thấy rõ được sự sinh diệt của các Pháp, đã thoát ra khỏi kiết sử vị kỷ tiềm tàng từ vô lượng kiếp, đã đầy đủ niềm kính tin với Mười Phương Chư Phật, đã xác định lý tưởng tu hành cho đến ngày giác ngộ hoàn toàn.

Lúc bấy giờ, Chư Thiên Tử hết sức vui mừng và bày tỏ lòng thành kính thỉnh Thánh Mẫu lưu lại cõi trời đến khi viên mãn Đạo Bồ Đề. Thế nhưng Thánh Mẫu đã từ chối để sinh về cõi người tu hành cho trọn vẹn công đức.

Đối với người đã hiểu rõ con đường thì việc ở cõi trời hay cõi người không quan trọng, miễn là ta sống có lợi ích cho chúng sinh. Biết đâu vào thời mạt Pháp, khi mà thế giới con người trở nên hỗn loạn độc ác vì tà kiến tràn đầy, thì Bồ Tát sinh xuống cõi người với phước lực phi thường để nhiếp phục loài người về với Chánh Đạo. Vua trời Đế Thích chắp tay cúi lạy Thánh Mẫu với vẻ cảm phục sâu xa.

Chợt có vị Thiên Tử Lambasa từ cõi trời Tha Hóa Tự Tại đến đảnh lễ Thế Tôn và bẩm rằng Chư Thiên Tử ở cõi Tha Hóa Tự Tại phước lực tràn đầy, muốn gì có nấy, mọi thứ đều hiện ra theo ý thích của mình.

Chính vì thế mà Thiên Tử ở đấy luôn cảm thấy thỏa mãn, không cảm được nỗi khổ của luân hồi sinh tử nên không thể phát tâm cầu Vô Thượng Bồ Đề, riêng Thiên Tử Lambasa đã từng phát nguyện cầu Vô Thượng Bồ Đề trước Đức Phật Tì Bà Thi nên không vì sự sung sướng ở cõi trời mà quên tu hành.

Thiên tử Lambasa cúi xin Đức Thế Tôn mở ra phương tiện cứu độ những chúng sinh quá sung sướng mà bỏ qua Chánh Đạo.

Thế Tôn tuyên thuyết rằng vào thời Đức Phật Tỳ Bà Thi, Thiên Tử Lambasa đã đem cả gia sản khôn ngoan cúng dường phụng sự cho chư tăng ổn định lâu dài, nhờ phước đó mà được sinh về cõi trời Tha Hóa Tự Tại để hưởng phước tràn đầy. Rồi lại quỳ trước Đức Phật Tỳ Bà Thi mà phát nguyện giác ngộ nên luôn giữ được tâm tu hành kỹ lưỡng. Còn các Chư Thiên ở cõi Tha Hóa Tự Tại muốn gì cũng có nên bản ngã âm thầm tăng trưởng mãnh liệt, ngấm ngầm hơn thua nhau với những điều nhỏ nhặt, thậm chí còn dòm ngó xuống cõi người để tìm cho nhiều người sùng bái mình bằng cách mở ra các tín ngưỡng kỳ lạ tà kiến, lúc nào cũng muốn sai khiến tất cả, thâu tóm tất cả, phước nhiều mà không tu sẽ đưa đến điều bất hạnh.

Nay ở cõi người cũng tương tự như thế, người nhiều phước cũng phát sinh bản ngã tăng trưởng, kiêu căng, ngạo mạn. Tâm kiêu căng ngạo mạn này quay lại phá hết những công đức phước lành đã gây tạo từ trước, khiến cho người đó có thể đọa vào ác đạo. Chỉ có những Bồ Tát có trí tuệ sâu xa mới có thể vừa có phước vừa kiềm chế được tâm kiêu mạn, còn lại chúng sinh đều bị phước lực của mình phá trừ đạo hạnh của mình.

Thiên tử Lambasa bẩm rằng khi chúng sinh phát tâm tu hành thì ai cũng phải làm phước rất nhiều mới có thể chuyển thân từ phàm lên thánh, nhưng khi có nhiều phước rồi lại phát sinh kiêu mạn nguy hiểm, chính vì điều này mà chúng sinh cứ luẩn quẩn không thể thoát ra được.

Thiên Tử cúi xin Thế Tôn chỉ dạy để không bị chính phước của mình hại mình như thế. Thế Tôn trả lời rằng một vị Bồ Tát lúc nào cũng xem phước báo của mình cũng như Không để không khởi tâm kiêu mạn, vị Bồ Tát lúc nào cũng xem quả minh chứng đạt được là Không có, lúc nào cũng xem tài sản quốc độ phước báo của mình là Không có, lúc nào cũng xem cái ta là Không có, nên mới thoát được tâm kiêu mạn.

Vì thoát được tâm kiêu mạn nên Bồ Tát không bị lui sụt, không bị thủ hưởng phước báo, không bị tổn phước nhờ thế mà Bồ Tát tích lũy được vô biên vô lượng phước lực tiến đến giác ngộ viên mãn. Chỉ có những chúng sinh hữu tình có thiện căn rất lớn mới đủ dũng lực xem thành tựu của mình là hư vô.

Đa phần chúng sinh hữu tình làm được chút công đức lành rồi kêu vào đó mà chấp công, thành tựu chút phước báo nào rồi lại tự hào về điều đó, hoặc chứng được chút thiền định tâm linh nào rồi cũng ỷ vào đó mà kiêu mạn. Như Lai dùng Phật nhãn để xem xét chúng sinh trong các cõi, thấy rõ chỉ những chúng sinh nào đã từng cung kính cúng dường các Đức Phật quá khứ thì mới có thiện căn, để từ chối phước báo của mình mà tránh được tâm kiêu mạn. Phải biết rằng, tâm kiêu mạn, dù lộ liễu hay kín đáo đề núp trong tâm thức của tất cả chúng sinh. Sau những lời của Đức Phật, rất nhiều Chư Thiên Tử chứng được thánh quả cao hơn, đồng loạt quỳ lạy Đức Phật, tấu nhạc vang lừng trời, rải hoa trời bay đầy cả hư không.

Vua trời Đế Thích bẩm với Thế Tôn về sự khác nhau về thời gian nơi cõi trời và cõi người. Chính vì thời gian khác biệt quá lớn nên gặp trở ngại trong việc cứu độ chúng sinh ở cõi người. Thế Tôn thuyết giảng rằng các cõi cách xa nhau muôn trùng nên rất khó để đến với nhau để hỗ trợ nhau giúp đỡ nhau. Ngay cả cõi người cũng có những mối bận tâm riêng của mình.

Nghiệp đã khiến cho chúng sinh phải nhận lấy cõi giới của mình. Chỉ khi nào chúng sinh ở cõi người khởi phát được ý niệm tu hành cao thượng, trải lòng tôn kính Tam Bảo, mở lòng yêu thương chúng sinh, khát vọng tìm cầu giác ngộ, thì sức mạnh của ý nghiệp tốt lành đó sẽ chiêu cảm được sự chú ý của Chư Thiên trên cao, thúc đẩy Chư Thiên hướng về tâm con người, nhập vào thời gian của cõi người, để theo dõi chúng sinh hữu tình mà tìm phương tiện để giúp đỡ.

Chỉ khi Như Lai xuất hiện giáo hóa khiến cho chúng sinh biết khởi tâm lành hướng thượng, chiêu cảm được sự chú ý của Chư Thiên thì mới có sự mầu nhiệm xuất hiện giữa cõi người. Muốn cứu giúp chúng sinh ở cõi người, Bồ Tát phải thường hướng tâm về cõi người để ứng với thời gian cõi người chính vì thế mà vị Bồ Tát đó có thể dễ giáng sinh vào cõi người để thực hiện được tâm nguyện của mình. Có những chúng sinh có lòng tin về Chư Thiên nên hay cầu nguyện đủ điều, có những lời cầu nguyện thích đáng nên được Chư Thiên gia hộ có kết quả tốt đẹp, có những lời cầu nguyện phi lý nên không được đáp ứng nên sinh ra mất niềm tin về cõi trời, thậm chí còn phỉ báng cõi trời để tạo nghiệp bất thiện. Có nhiều vị thần A Tu La cai quản trực tiếp cõi người là người từng có nhiều công lao với đời nhưng chưa đủ công đức để về cõi trời.

Vua trời Đế Thích hỏi rằng đến cảnh giới nào thì một bậc thánh mới có thể thoát ra được kiêu mạn dù phước báo của mình rất lớn?

Thế Tôn trả lời rằng các Bồ Tát chỉ có thể dùng trí tuệ để ngăn chặn tâm kiêu mạn tạm thời chứ không thể diệt trừ nó. Phước thì rất nhiều nhưng ác tâm thì cao ngất, đó là ác ma cũng chính là cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Tâm kiêu mạn nguy hiểm như thế nên Bồ Tát hết sức coi chừng tâm kiêu mạn, hết sức kiềm chế tâm kiêu mạn để không lạc mất thánh đạo giải thoát. Lúc đó Chư Thiên quỳ lạy Phật đầy xúc động, một số Thiên Tử chứng đắc những quả vị cao hơn.

Ngay lúc đó, chợt có nhiều tôn giả A La Hán từ cõi người bay lên hiện ra giữa trời đảnh lễ Thế Tôn và báo cáo Thế Tôn về việc giáo hóa chúng tại cõi người và việc tu tập, cúng dường của chúng tại cõi người. Có những ngoại đạo sau khi thấy chứng kiến hiển thị đại thần lực thì hết sức kinh ngạc để rồi phát tâm quy hướng tam bảo, nhưng cũng có những ngoại đạo lại thất vọng vì thua kém, rồi tức giận mà tìm cách đánh bại Thế Tôn.

A La Hán Tu Bồ Đề cúi xin Thế Tôn giảng thuyết về những trạng thái tâm lý trái ngược nhau như vậy. Thế Tôn mới giảng rằng, Đại Sự Nhân Duyên của Như Lai như một trận mưa tưới nhuần khắp đất trời mà tâm hồn như hạt giống. Có những hạt giống đại thụ gặp mưa liền mọc thành cây cao bóng cả, có những hạt giống cỏ dại gặp mưa chỉ mọc lên bãi cỏ xanh tốt, nhưng cũng có những hạt giống cây độc gặp mưa liền mọc lên đầy nhựa độc. Các ngoại đạo kia trong lòng chứa đầy hơn thua, tranh giành, tự tôn, ác độc, tuy tự xưng là Bà La Môn, là đạo sĩ nhưng trước Đại Sự Nhân Duyên hiểu thị đại thần thông lực của Như Lai chỉ khởi được tâm đố kỵ, độc ác mà thôi. Những tâm hồn của họ là những hạt giống tối tăm của sự bất thiện, những kẻ đó phải trải qua nhưng lúc đọa vào ác đạo chịu nhiều thống khổ mới hạ được tâm kiêu ngạo, lúc đó mới chịu nhận lỗi về mình, rất khó độ cho những người đó. Lúc đã biết nhận lỗi về mình thì tâm kiêu mạn lắng xuống, họ mới có thể nghe được đạo lý chân chính.

Bồ Tát Tu Bồ Đề bạch Thế Tôn về giáo nghĩa Không, trống rỗng, vô thường, vô sở hữu, vô sở đắc mà Thế Tôn đã giảng cho Chúng Bồ Tát khiến cho Bồ Tát giữ được Chánh Niệm trong sự khiêm hạ tột cùng. Biết xem những gì mình là được là như Không để cho Bồ Tát từ bỏ ý nghĩ chấp công. Khi bỏ công lao, tâm huyết, tài sản để làm thiện nguyện lớn thì tự nhiên thẳm sâu trong lòng ai cũng chấp công, kể công và trở thành tâm kiêu mạn nguy hiểm.

Chúng sinh có nhiều phước thì tài sản nhiều, tài sản gắn liền với công đức trong quá khứ mà công đức cũng là tấm lòng, công lao khó nhọc, vì thế khi thành tựu công đức, sở hữu lập tức tâm chấp vào tài sản và lập tức tâm kiêu mạn cũng được sinh ra. Ngay cả những người bắt đầu tu hành bắt đầu có kết quả cũng có thể sinh ra tâm tự hào bí mật mà đâu ngờ rằng có thể phá hết những công đức tu hành. Chính vì lẽ đó mà Thế Tôn luôn nhắc đi nhắc lại đạo lý Vô Sở Đắc, không được thấy mình có điều gì để chúng sinh kiềm chế tâm tự hào bí mật, ngăn chặn được tâm kiêu mạn nguy hiểm. Ngay lúc đó, có rất nhiều vị Thiên Tử chứng được quả cao hơn, đồng thành quỳ lên đảnh lễ Phật và tôn giả Tu Bồ Đề.

Ở cánh đồng thiên, mọi người ngồi túm tụm thành từng nhóm nhỏ để bàn đạo lý, các lều dựng tạm rải rác khắp khu vực, các tôn giả dùng thần thông để dựng lên một gò đất, cây cối phủ xanh vùng gò đất, và một toàn bằng đá rất đẹp hiện ra ở giữa đỉnh gò đất. Chợt ánh sáng chói lóa từ trên trời cao, tiếng nhạc vang lừng, từ trên trời tôn giả Punna Mantaniputta hiện ra, theo lời Đức Thế Tôn bảo xuống trần để tuyên thuyết lại pháp nghĩa uyên bác to lớn từ cõi trời cho đại chúng nghe.

Trong lúc đó, tại một ngôi đền ngoại đạo, các tu sĩ ngoại đạo đưa người trà trộm xuất gia và hàng ngũ tăng đoàn để dò la, tìm hiểu nội tình để gây ra sự chia rẽ, gián đoạn. Trong cung điện của Vua Bình Sa, Vua cho người cung cấp lương thực cho mọi người ở cánh đồng thiên. Sáng hôm sau, thấp thoáng thấy bóng của tôn giả Đại Ca Diếp, các vị tỳ kheo đều ra chào đón, tôn giả trong hang đá nghe được Thế Tôn ở cõi trời Đao Lợi thuyết pháp cho Chư Thiên Tử và Thánh Mẫu Maya. Tôn giả cho hay rằng chẳng bao lâu nữa Thế Tôn sẽ trở xuống cõi người nên tôn giả trở về để đảnh lễ Đức Phật.

Ánh mặt trời lên cao dần, mây mù mùa mưa tan dần, nắng càng lúc càng chói chang. Bỗng nhiên một vầng mây năm màu đẹp đẽ xuất hiện che mát cả bầu trời, tiếng nhạc trời vang lên dìu dặt khắp cả đất nước, các nhạc thần hiện ra một góc trời ôm đàn hòa tấu, hương thơm ngào ngạt, hoa trời bắt đầu rơi lấp lánh từ trên cao xuống chạm đất liền biến mất. Từ trên bầu trời, một chiếc cầu bằng ngọc sáng lung linh hiện ra kéo dài đến mặt đất. Mọi người nhìn lên trời cao, thấy một vùng hào quang chói sáng xuất hiện dần từ trên cao của cầu, theo chiếc cầu ngọc đi xuống.

Đến khi thấy rõ thì mới trông thấy Đức Phật đang đi trên cầu ngọc từ trời cao, theo sau là Vua Trời Đế Thích và rất đông các Chư Thiên Tử. Đức Phật đi xuống, chân vừa chạm mặt đất thì chúng Phật tử cũng đồng loạt quỳ lễ Ngài, Chư Thiên Tử đầy cả bầu trời chắp tay chào Đức Phật. Chiếc cầu mờ dần rồi biến mất vào trong hư vô, Chư Thiên Tử cũng biến mất, các nhạc thần trả lại sự yên lặng và biến mất, mây ngũ sắc tan dần…


TẬP 24: ĐỆ NHẤT HÙNG BIỆN

Sau khi rời cánh đồng màu nhiệm, Đức Phật cùng đoàn tăng ni, cư sĩ nối thành một hàng dài bất tận hướng về Tinh Xá Kỳ Viên. Về đến trước Tinh Xá, Đức Phật bảo tôn giả Sariputta nói với các cư sĩ trở về nhà và tinh tấn tu hành. Tuy nhiên, một số đông các thanh niên không chịu về mà quỳ xuống chắp tay xin Phật cho họ được xuất gia trong Pháp và Luật của Người.

Nói về việc Đức Phật sau khi hiển thị đại thần thông, lòng người khắp nơi lại càng quy ngưỡng hướng về. Các phái ngoại đạo cũng vì thế mà tạm thời chùng xuống, chưa triển khai hoạt động chống phá gì. Lợi dụng thời cơ đó, Rahula liền đề xuất và tham khảo ý kiến tôn giả Nanda về việc xây dựng nơi đào tạo thám tử về gần Vương Xá hoặc Xá Vệ để tiện việc thường xuyên kiểm tra. Sau một hồi hội ý cùng tôn giả Nanda, cuối cùng Rahula quyết định sẽ lập cơ sở đào tạo thám tử ở Vương Xá trước, rồi hai mươi năm sau sẽ chuyển về Xá Vệ.

Kế đến, Rahula đến đảnh lễ tôn giả Sariputta để xin nhận được những lời giáo huấn từ tôn giả. Đồng thời, trình bày những thắc mắc của mình về tôn giả Punna Mantaniputta. Tôn giả Sariputta cho biết, tôn giả Punna Mantaniputta là một bậc A La Hán siêu phàm, thuyết pháp lay động cả cầm thú. Nhưng vì tôn giả Punna có nhân duyên lớn với nhân dân vùng Kapilavatthu nên về đó mở mang giáo hóa, thay Đức Phật độ quê hương của Người. Không những thế, tôn giả cũng chính là người xây dựng đền thờ nơi Đức Phật đã đản sinh. Có thể nói đó là một thánh tích muôn đời cho chúng sinh. Có lần, khi tôn giả Sariputta nêu ra vài câu hỏi về đạo lý, tôn giả Punna đã đưa ra ví dụ về bảy trạm xe cực kỳ thú vị, cực kỳ thuyết phục.

Bảy trạm xe ví như bảy giai đoạn tu hành. Bắt đầu từ giữ gìn giới hạn đạo đức giúp cho tâm thanh tịnh. Rồi tâm thanh tịnh giúp cho cái thấy thanh tịnh. Cái thấy thanh tịnh giúp cho hiểu biết thanh tịnh. Cuối cùng là đạt được Niết Bàn không còn chấp trước.

Sau khi nghe tôn giả Sariputta lý giải xong, Rahula chắp tay xin phép: “Khi nào có dịp xin tôn giả cho con được đến chiêm bái nơi Đức Phật chứng thành đạo quả nhé”. Tiếp đó, Rahula đến xin phép tôn giả Nanda lên đường về Kapilavatthu để sắp xếp chuẩn bị cho việc dời trại huấn luyện thám tử.

Sau khi khảo sát tình hình tập luyện và hội bàn cùng với các thám tử, Rahula quyết định dời trại huấn luyện về Hoa Thị Thành nhưng sẽ ở cách xa phố xá. Đồng thời, mua đất lập nông trại, trồng vườn để tránh tai mắt của các thám tử khác.

Trong cung Vua Pasenadi, Vua cùng các hoàng phi, hoàng tử, công chúa và đại thần,… đều cung kính đảnh lễ Đức Phật. Đồng thời, mời Người cùng Chư Tăng Ni thọ thực. Khi đã thọ thực xong, Đức Phật thuyết giảng cho Vua Pasenadi cùng tất cả mọi người cùng nghe về việc sử dụng thần thông và sự thán phục.

Đức Phật nói: “Này Đại Vương, thần thông có thể làm chúng sinh thán phục và sự thán phục ấy có thể đưa đến lợi ích, cũng có thể không đưa đến lợi ích nào cho chúng sinh. Nếu chúng sinh thán phục thần thông của một bậc đã thành tựu giới hạnh thanh tịnh, đã thành tựu tri kiến thanh tịnh, đã thành tựu Niết Bàn thanh tịnh thì chúng sinh ấy đã thành tựu thiện căn giải thoát cho chính mình. Sự thán phục một vị thánh khiến chúng sinh đã gieo một phúc lành cho mai sau.

Ngược lại, nếu chúng sinh thán phục thần thông của một kẻ chưa diệt trừ kiết sử vô minh, thì sự thán phục ấy không đem đến lợi ích về sau. Cũng giống như ta xem những người biểu diễn các xảo thuật đường phố. Họ có thể nuốt lửa, nuốt dao, có thể đi trên than hồng,… Lúc đó, ta thán phục vỗ tay reo hò vang dội. Nhưng cuối cùng, mọi người chỉ vui chút rồi về lại nhà mình với tham, sân, si chưa hề thay đổi.

Này Đại Vương, ai hiểu rằng nghiệp chi phối đời sống của chúng sinh có thể đưa chúng sinh đến nơi cao sang hay nơi thấp hèn, thì người ấy đã bắt đầu có chứng kiến trên lộ trình tu tập.

Sau khi thuyết pháp xong, Đức Phật và Chư Tăng Ni trở về Tinh Xá Kỳ Viên. Tại đây, tôn giả Sariputta giới thiệu với đại chúng về tôn giả Moggalana (Mục Kiền Liên) – vị thống lĩnh tăng đoàn ở Tinh Xá Trúc Lâm. Đây là lần đầu tiên tôn giả Moggalana theo Đức Phật về thăm Kỳ Viên.

Tôn giả Sariputta vừa giới thiệu xong thì nhiều vị tỳ kheo trẻ bước đến cúi lạy tôn giả Moggalana và thưa hỏi: “Thưa tôn giả Moggalana, con nghe nói tôn giả là Đệ Nhất Thần Thông trong hàng đệ tử của Thế Tôn, con phải hiểu việc này thế nào ạ?”.

Tôn giả Moggalana khiêm tốn trả lời vì thường hay dùng thần thông nên mọi người đồn thế. Rồi tôn giả cho biết, dùng thần thông để giáo hóa vẫn chưa phải là hay, dùng lời nói và tư cách để cảm hóa người như tôn giả Sariputta đây mới là vĩ đại. Ngoài ra, ở Trúc Lâm còn có rất nhiều vị tôn giả khác đều là những vị thần lực siêu phàm. Tôn giả Moggalana khuyên các tỳ kheo nên đến gặp, hỏi thăm các tôn giả ấy sẽ được nhiều lợi ích.

Hiền giả Napeti lại hỏi tiếp rằng tôn giả Moggalana có thể du hành đến những cõi nào trong pháp giới này. Tôn giả trả lời, chỉ những vị nào chứng đạt Tam Minh, dứt trừ hết lậu hoặc giải thoát khỏi tam giới, không còn tái sinh thì mới biết được sự vô tận của pháp giới này. Nếu xem hạt các của sông Hằng là pháp giới thì cõi đất này của chúng ta chưa bằng một hạt bụi. Ngoài ra còn có những cõi trời sâu xa mầu nhiệm khắp nơi trong pháp giới này mà mắt thường của chúng sinh không thể nhìn thấy được.

Rồi tôn giả Moggalana nhấn mạnh: “Này hiền giả Napeti, không một vị A La Hán nào đủ sức du hành các hết các cõi trong pháp giới vô tận này được, dù các vị có thể thấy hết”.

Hiền giả Napeti lại hỏi tiếp rằng pháp giới này từ đâu mà có, xuất hiện lúc nào và do ai tạo ra. Tôn giả trả lời, pháp giới vũ trụ này không có bắt đầu không có chấm dứt. Ngay lúc chúng ta đang nói chuyện đây thì đang có những cõi đất trôi ra xa để tàn hoại biến mất vào hư vô. Đồng thời, lại xuất hiện nhiều đám mây bụi ở bên trong chuẩn bị tạo nên các cõi đất khác. Ngay bây giờ, vẫn đang có nhiều ánh mặt trời trôi ra xa rồi tắt lịm, trước khi tàn hoại biến mất vào hư vô. Cùng lúc, đang xuất hiện nhiều đám mây bụi hợp lại để tạo thành các ánh mặt trời mới từ bên trong.

Tôn giả Moggalana cho biết thêm: “Pháp giới vũ trụ này không do ai tạo ra, không có bắt đầu, không có chấm dứt. Pháp giới này sẽ tăng thịnh hay suy tàn đều do nghiệp của chúng sinh ảnh hưởng”.

Tiếp đến, tôn giả Moggolana trả lời thêm câu hỏi bên ngoài pháp giới vũ trụ này là cảnh giới gì? Theo tôn giả, không có cái gì là bên ngoài của pháp giới vũ trụ này nữa. Ta không bao giờ dừng được câu chuyện về pháp giới vũ trụ vô tận này… Rồi tôn giả khuyên mọi người hãy tinh tấn tu tập cho đến khi dứt trừ được lậu thì sẽ biết rõ mọi điều và cũng đừng nên thắc mắc quá nhiều về Pháp giới khi chưa chứng Đạo.

Cũng tại Kỳ Viên, tôn giả Kassapa (Ca Diếp) đến gặp tôn giả Sariputta và bày tỏ mong muốn của mình cũng như các tôn giả khác về việc đến viếng thăm thánh địa nơi Đức Phật đã xuất thai mẹ làm người. Được sự đồng ý của tôn giả Sariputta, một tăng đoàn rất đông các tỳ kheo, tôn giả cùng lên đường, rời khỏi Tinh Xá đi về hướng Đông. Đến một khúc đường vắng người, các vị liền biến mất vào hư không và hiện ra bên ngoài kinh thành Kapilavatthu.

Tại khu vườn Lumbini, các tôn giả bước vào ngôi đền có tường bao quanh cây Ưu Đàm ở giữa, rồi lần lượt trải tọa cụ ra tọa thiền nhập định. Cho đến khi tiếng gà rừng gáy vang, đồng thời những tia nắng mặt trời bắt đầu chạm đất, các tôn giả mới xuất định đi dạo và nhận vật thực cúng dường của dân làng. Sau khi thọ thực và khuyên dạy một vài đạo lý cho người dân, các tôn giả ra về. Đến khúc đường vắng, các vị cất người bay lên không trung, xuyên qua các đám mây và dừng lại trước đỉnh núi tuyết phía Bắc.

Lúc này, tôn giả Kassapa cất lời: “Đỉnh Núi Tuyết đó chính là đỉnh núi cao nhất của cõi đất này. Từ xưa đến nay, có nhiều bậc ẩn sĩ đã tìm đến đấy ẩn tu. Sau này, tôi cũng sẽ tìm đến một hang động trong đấy nhập định Kim Cang bất hoại. Để chờ đến nhiều nghìn năm sau có cơ hội mà nhắc chúng sinh về đạo lý giác ngộ của Thế Tôn mà mọi người cơ hồ quên lãng”.

Quay trở lại Tinh Xá Kỳ Viên, hiện đang là mùa đông. Trời đã lạnh mà ở Savathi (Xá Vệ) thì lạnh hơn Rajagaha (Vương Xá) rất nhiều. Nên Đức Phật đặc biệt dặn dò tôn giả Sariputta xem có tỳ kheo nào chưa đủ áo ấm khoác thì khuyến hóa các cư sĩ cúng dường, để tránh có người rét bệnh. Bên Ni chúng cũng vậy. Người vừa dứt lời thì có Đại thần học sĩ của nước Avanti, Maha Kaccayana (Ca Chiên Diên) cùng với bảy người xin được diện kiến. Sau khi đảnh lễ Đức Phật, Maha Kaccayana bày tỏ rằng, sau khi nghe rất nhiều lời đồn về Người, Vua Candapajjota của ngài đã lệnh cho ngài phải đi tìm cho được Đức Phật. Thỉnh người du hóa xứ Avanti để Vua được bái kiến và thính pháp.

Sau khi nghe Kaccayana tường trình về chuyến đi và vô số lời ca ngợi không ngớt về mình, Đức Phật mới bảo Kaccayana và mọi người ngồi xuống nghe Người thuyết giảng về người trí và người ngu.

Người nói: “Người ngu là người không tin có đời này, đời sau, không tin có nghiệp và quả báo của nghiệp, không tin có cõi trời hay địa ngục, không tin có sự giải thoát khỏi sinh tử, không thấy được bản ngã chỉ là sự giả hợp của năm Thủ Uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), không biết con đường Bát Chánh.

Người trí là người tin có tái sinh, tin có nghiệp và sự báo ứng của nghiệp. Tin có các cõi trời hay địa ngục. Tin có sự luân hồi. Hiểu được khổ, nguyên nhân của khổ, thấy được sự diệt khổ và con đường Bát Chánh đưa đến sự diệt khổ đó. Ngay khi phải sống bằng xác thân này, nhưng người trí thường quán tưởng sắc thân này chỉ là sự tạm bợ vô thường, chỉ là sự kết hợp của tứ đại (đất, nước, gió, lửa). Các khúc xương, thịt, gân gắn kết với nhau, các chất máu, dịch, tủy trộn lẫn với nhau. Ngày đêm thường tiết ra các chất bất tịnh. Ngày nào đó rồi xác thân này cũng phải già, phải bệnh, phải chết. Xác bị đem quăng, bị các côn trùng rúc rỉa hay bị dã thú cắn xé. Cuối cùng các xương cũng mục tàn thành bụi lẫn vào đất.

Người trí thường quan sát các cảm thọ khởi lên trong thâm tâm mình. Biết rõ tất cả chỉ là sự vọng động, luôn thay đổi, hay nhàm chán khiến chúng sinh vì tránh khổ tìm vui mà tạo ra biết bao nghiệp chướng nặng nề.

Người trí quan sát các suy nghĩ lăng xăng không dứt trong tâm mình chính là sự vọng động mê mờ, khiến tâm mình không còn tỉnh giác sáng suốt, khiến cho bản ngã càng nặng nề hơn. Người trí quan sát thấy tâm hành, cái mà điều khiển tất cả các hành động của thân thể, cái mà điều khiển mọi tư duy lý luận, chính là hang ổ của bản ngã chấp, chính là mớ cuồng vọng si mê.

Người trí thấy rõ cái biết như là bất động kia cũng chỉ là vô thường biến dịch từ bản ngã vô minh mà lưu xuất, vẫn chưa phải là bờ bến an ổn. Này Maha Kaccayana, thế nào là Bát Chánh Đạo?”

Đột nhiên, Kaccayana bật đứng dậy quỳ lạy Phật với thái độ siêu thoát lạ lùng. Đức Phật giơ tay ra và nói: “Lành thay, hãy đến đây tỳ kheo”.

Lập tức Maha Kaccayana biến thành một tỳ kheo với đầy đủ cà sa, tóc đã sạch. Bảy người còn lại cũng quỳ xuống đảnh lễ Phật xin xuất gia, cũng đã chứng cảnh giới nào rồi.

Sáng hôm sau, tôn giả Kaccayana đến yết kiến và kính thỉnh Đức Phật du hóa một chuyến về xứ Avanti để giáo hóa. Đức Phật trả lời rằng tôn giả Maha Kaccayana có thể tự mình giáo hóa cho Vua Candopajjota và nhân dân xứ Avanti, không cần Người phải đi nhưng sau này có dịp Người sẽ đi đến xứ Avanti.

Tôn giả Maha Kaccayana vâng lời, cúi lạy Đức Phật rồi đi ra từ giã các tôn giả trong Tinh Xá Kỳ Viên, để về lại Avanti truyền lại đạo lý màu nhiệm của Đức Phật. Chuyến đi này tôn giả chỉ mang theo bốn người và hẹn sẽ quay lại để được hầu Phật và các sư huynh tôn giả.

Tôn giả Sariputta nói: “Này tôn giả Maha Kaccayana, tôn giả sẽ là ngôi sao sáng trong hàng đệ tử của Thế Tôn, tôn giả sẽ rống lên tiếng con sư tử để truyền bá Chánh Pháp nhiều nơi, tôn giả hãy đi và sẽ quay lại, chúng ta lại sẽ đoàn tụ…”

Sau khi tôn giả Maha Kaccayana rời khỏi Tinh Xá, Rahula thắc mắc hỏi tôn giả Nanda về vầng mây ngũ sắc phía trên đoàn người của tôn giả Maha Kaccayana.

Tôn giả Nanda đáp: “Đó là Chư Thiên đang đi theo hầu tôn giả Kaccayana. Tôn giả Maha Kaccayana là một người kỳ tuyệt, đã nhiều kiếp tạo vô số công đức lành từ các vị Phật quá khứ.

Tôn giả có tài hùng biện ít ai sánh kịp: nghĩa là đứng trước vấn nạn hóc búa, những thắc mắc kỳ lạ, những lập luận gài bẫy, tôn giả sẽ thuyết phục giải bày dẫn dắt cực kỳ hấp dẫn mà không ai không hài lòng. Trên chuyến đi về quê hương này, tôn giả sẽ để lại dấu ấn nơi mỗi bước chân đi qua”.

Tiếp nối chuyến hành trình của tôn giả Maha Kaccayana, khi các vị lên bè vượt sông Hằng, lúc gần qua bờ phía Nam, chợt có một người đứng dậy rút gươm kề cổ người lái bè và lấy tay chỉ vào tôn giả Maha Kaccayana nói rằng, nếu tôn giả trả lời được câu hỏi của hắn, hắn sẽ cho bè cập bến. Nếu không, hắn sẽ thả bè trôi tự do ra biển. Và câu hỏi mà người này đặt ra là: “Trên đời này điều gì tôn quý nhất?”.

Tôn giả Maha Kaccayana điềm nhiên trả lời: “Không làm khổ mình, không làm khổ người khác. Đó là điều tôn quý nhất”.

Nhận được câu trả lời, người cầm kiếm hơi ngẩn người, sau đó trấn tĩnh lại nói: “Sa môn đáp sai rồi, điều tôn quý nhất chính là Phạm Thiên trên trời cao”.

Liền tức khắc, tôn giả Kaccayana nói: “Hiền giả cũng nói sai rồi. Hiền giả vừa hỏi trên đời này, bây giờ lại nói trên trời cao”.

Nói rồi, tôn giả giải thích: “Phạm Thiên trên trời cao thì không ai nhìn thấy. Những nỗi khổ của cuộc đời thì ai cũng đã từng trải qua khi người thân phải xa lìa, khi tai họa kéo tới, khi già bệnh chết không tránh khỏi. Từ Vua chúa cho đến người nghèo khổ, không ai là không bị đau khổ”.

Vì vậy, giữa cuộc đời quá nhiều đau khổ này, ai mà có thể thoát khỏi đau khổ, người đó là tôn quý nhất. Ai có thể không làm khổ người khác đó là điều tôn quý nhất”.

Tôn giả vừa dứt lời, mọi người trên bè đều ồ lên cảm phục. Người cầm gươm lại lúc này đã bớt hung hăng và xuống giọng hỏi: “Sa môn đã thoát khỏi đau khổ chưa?”

Tôn giả Kaccayana trả lời: “Nếu ta nói ta đã thoát ra khỏi đau khổ rồi thì thí chủ lại sẽ hỏi làm cách nào để thoát đau khổ. Mà cách nào để thoát khỏi đau khổ thì ta chỉ có thể nói cho đệ tử của mình, chứ không nói cho người cầm gươm kề cổ lái đò làm kinh sợ cả đoàn người như thế. Hiền giả tuy cầm gươm có vẻ oai hùng, thế nhưng cuộc đời cũng đã quá nhiều đau khổ không nói thành lời. Lưỡi gươm chỉ che đậy những đau khổ giấu kín trong tâm hồn mà thôi”.

Nghe được những lời nhìn thấu tận ruột gan, vị kiếm khách liền buông gươm, quỳ xuống khóc nức nở. Rồi trong phút chốc gào lên hỏi sao tôn giả Kaccayana lại biết.

Tôn giả Kaccayana không trả lời mà bảo: “Này thí chủ, hãy dùng lưỡi gươm vô hình của trí tuệ để đoạn trừ phiền não khổ đau nơi chính mình”.

Nói xong, tôn giả và bốn người bạn bỗng nhiên biến mất khỏi bè và hiện trên bờ sông xa xa.

Sáng hôm sau, khi tôn giả Kaccayana và bốn người còn lại đang đi trên đường thì có một gia chủ đến thưa và thỉnh năm vị đến nhà ông thọ thực. Sau khi năm tôn giả thọ thực xong, người cư sĩ gọi cả nhà ra đảnh lễ các tôn giả và hỏi năm vị quê ở đâu? Thờ ai làm thầy? Tu hành với đạo lý nào? Tôn giả Kaccayana đáp lại các câu hỏi của vị cư sĩ rồi thuyết pháp cho ông và nhóm bạn của ông nghe. Để ông và nhóm bạn của ông có thể giải tỏa được mối ưu tư khi có quá nhiều đạo sĩ, du sĩ, Bà La Môn hay ghé qua nói chuyện về đạo lý, khiến họ muốn điên cả đầu mà không biết ai đúng, ai sai.

Tôn giả Maha Kaccayana nói: “Này các gia chủ, chánh pháp của Thế Tôn Gotama nhằm đưa đến sự giải thoát mọi đau khổ. Giải thoát những mê lầm, giải thoát khỏi những vô minh chứ không chất chồng thêm gánh nặng vào tâm trí chúng sinh điều gì cả. Này các gia chủ chúng sinh đau khổ vì vô minh quá nhiều: bản ngã quá lớn, phiền não quá dày đặc, tà kiến quá sâu. Nếu chúng sinh gỡ bỏ các tà kiến, phiền não, bản ngã, vô minh đó ra khỏi thì tự nhiên được giải thoát, được giác ngộ. Này các gia chủ, giáo pháp của Thế Tôn Gotama dùng để gỡ bỏ tà kiến, phiền não, bản ngã, vô minh gồm tám Chánh Đạo (Bát Chánh Đạo) sau:

– Thứ nhất là Chánh Kiến: nghĩa là hiểu cho đúng đạo lý để không nhận thêm tà kiến nào vào làm nặng nề tâm hồn nữa. Trong đó, tin hiểu nghiệp báo nhân quả là cốt yếu.

– Thứ hai là Chánh Tư Duy: nghĩa là chỉ cho phép tâm mình suy nghĩ những điều đúng khiến tâm mình nhẹ nhàng, thư thả chứ không suy nghĩ điều viển vông làm tâm hồn mình nặng nề thêm.

– Thứ ba là Chánh Ngữ: nghĩa là chỉ cho phép tâm mình nói những điều đúng làm cho mọi người chung quanh mình vui vẻ, hiền lành, yêu thương nhau. Khiến cho cuộc sống này trở nên nhẹ nhàng tươi mát. Chứ không nói những điều sai lầm khiến mọi người buồn giận nhau.

– Thứ tư là Chánh Nghiệp: nghĩa là chỉ cho phép mình làm những điều đúng, giúp đỡ mọi người, dạy dỗ giới hạnh cho mọi người, bố thí cho kẻ khó khăn, cúng dường bậc hiền thiện. Ngăn cản sự chia rẽ, tạo nên sự hòa hợp, từ chối làm việc ác, từ chối các dục lạc thấp hèn, khiến cho chung quanh mình ai cũng hưởng được niềm vui từ nơi mình.

– Thứ năm là Chánh Mạng: nghĩa là có phước rồi, ta sẽ chọn nghề nuôi sống bản thân và nuôi sống gia đình sao cho nghề đó mỗi ngày đều tạo ra phước chứ không tạo ra tội. Nghề đó cũng phải dư ra thời gian để ta bắt đầu bước vào tu tập đời sống tâm linh chứ không quá tất bật mất hết thời gian cho nó.

– Thứ sáu là Chánh Tinh Tấn: nghĩa là khi có phước rồi, có chánh mạng rồi, có thời gian dư ra rồi, ta phải bắt đầu tập tọa thiền nhiếp tâm thanh tịnh để giải tỏa hết những phiền não vọng động trong nội tâm. Giai đoạn ban đầu này, dù đã được dạy một phương pháp thiền định nhưng ta vẫn chưa đạt được liền sự nhiếp tâm thanh tịnh. Ta vẫn cực khổ khi ngồi Thiền, chân thì đau, tâm thì thì loạn. Nhưng kiên quyết thà chết không được nản lòng bỏ cuộc. Giai đoạn này, tùy theo phước nghiệp của riêng mỗi người mà sẽ mất thời gian nhiều hay ít.

– Thứ Bảy là Chánh Niệm: nghĩa là sau thời gian dài vất vả tu tập thiền định mà tâm vẫn loạn động mãi. Bây giờ bắt đầu xuất hiện những kết quả đầu tiên, tâm có tỉnh giác, có rỗng rang, có kiểm soát, có nhẹ nhàng. Ta bắt đầu có niềm tin vào con đường mà mình đã đi là chân chính. Giai đoạn này có khi mất bảy ngày, có khi mất bảy tháng, có khi mất bảy năm, có khi mất bảy kiếp, có khi mất bảy mươi kiếp, tùy theo phước nghiệp của từng người.

– Thứ tám là Chánh Định: nghĩa là sau khi thuần thục Chánh Niệm, ta sẽ bắt đầu nhập Sơ Thiền, rồi nhập Nhị Thiền, rồi nhập Tam Thiền, rồi nhập Tứ Thiền. Mỗi giai đoạn Thiền này cũng tùy theo phước nghiệp riêng của mỗi người mà kéo dài khác nhau. Sau khi nhập Tứ Thiền, vị đó bắt đầu nhớ từng đời sống quá khứ, nhớ đến vô lượng kiếp của mình, nhớ rõ từng đời sống sinh ra ở đâu, cha mẹ mình là ai, tên họ là gì, đã làm những hạnh nghiệp gì, và như vậy vị ấy chứng được Túc Mạng Minh.

Tiếp theo vị đó sẽ quán sát sự lưu chuyển của tất cả chúng sinh. Giống như người đứng ở lầu cao tại ngã tư đường thấy rõ mọi người qua lại. Cũng vậy, vị ấy thấy rõ chúng sinh chết đây sinh kia nhận lấy khổ vui theo đúng nghiệp mình đã gây tạo một cách hết sức công bằng. Và như vậy vị ấy chứng được Thiên Nhãn Minh.

Tiếp theo nữa, vị đó thấy rõ chúng sinh cả pháp giới này đều sống trong đau khổ bởi vì ái kiến vô minh. Vị đó thấy rõ Niết Bàn là nơi chấm dứt mọi khổ đau. Và con đường để đạt đến Niết Bàn chính là Bát Chánh Đạo mà ta vừa nói xong. Và như vậy, vị ấy chứng được Lậu Tận Minh để trở thành một vị A La Hán giác ngộ phi thường.

Sau khi nghe tôn giả Maha Kaccayana thuyết pháp xong thì gia chủ Pativasa và nhiều người bật quỳ lên nói: “Thưa tôn giả Maha Kaccayana, con đã thấy pháp. Con đã ngộ pháp. Tất cả những gì có sinh thì sẽ có diệt. Con xin quy y Thế Tôn Gotama, quy y Chánh Pháp của Thế Tôn Gotama, quy y chúng Thánh tăng, đệ tử của Thế Tôn Gotama, mà trong đó tôn giả Maha Kaccayana đã khai ngộ cho chúng con hôm nay. Từ nay cho đến mạng chung, con trọn lòng quy ngưỡng”.

Lúc đó, thật kỳ diệu thay, bên ngoài đang giữa mùa khô bỗng xuất hiện một trận mưa rào và mùi thơm từ đâu lan tỏa khắp nơi. Ra đi trong sự quý mến của mọi người, năm vị tôn giả đến một thị trấn nhỏ.

Trên đường đi, tình cờ trông thấy một người đồ tể cầm dao dắt một con dê đi đến lò mổ, tôn giả Kaccayana cất tiếng gọi người đồ tể: “Ta muốn anh tha mạng cho con dê này thì đổi lại ta cho anh được cái gì?”.

Người đồ tể đáp, chỉ cần tôn giả trả hai đồng bạc.

Tôn giả Kaccayana nghe xong liền hỏi người đồ tể: “Nếu như tôi đem lại cho anh cái lợi gấp trăm nghìn lần thì sao?”.

Người đồ tể trố mắt kinh ngạc và hí hửng trả lời rằng anh sẽ bỏ nghề đồ tể, chuyển sang nghề khác không sát sinh. Thế là tôn giả Kaccayana đề nghị người đồ tể cùng đến một gốc cây ngồi xuống nói chuyện. Khi mọi người đã ngồi xuống, tôn giả Kaccayana lên tiếng hỏi: “Này thí chủ, anh có biết vì sao một người nghèo hèn, vì sao một người sinh ra giàu sang? Anh có biết vì sao một người bị một cái nghề ràng buộc mãi không dứt ra được? Và một người được tự do chọn nghề theo ý thích không? Anh có biết vì sao người thì thông minh, người lại ngu dốt không?”.

Người đồ tể ngớ người và trả lời không biết, vì hiện tại anh chỉ quan tâm đến món lợi lớn hơn để anh thả con dê hoặc anh phải đem nó đi làm thịt liền cho kịp bán ở chợ.

Nhận thấy tất cả tâm trí của người đồ tể hiện tại không gì khác ngoài tiền, tôn giả Kaccayana liền nói: “Có bao giờ anh tìm được một trăm đồng tiền vàng trong một buổi sáng không? Vậy sao không bình tâm nghe nói cho cặn kẽ mọi điều”.

Tiếp đến, tôn giả kể về gia thế, xuất thân cùng hành trình đi tìm Đức Phật của mình, về Đức Phật, về những phép màu nhiệm khi ai có duyên được đảnh lễ cúng dường Đức Phật sẽ gặp những điều bất ngờ và may mắn thế nào,… Tôn giả nói, sau khi tìm gặp và nghe Đức Phật thuyết giảng, tôn giả đã đạt được báu vật gấp triệu lần số vàng mà tôn giả hiện đang giấu dưới nền nhà. Rồi Ngài cảm thấy so với báu vật vô giá đó thì đống vàng dưới nền nhà thật là vô nghĩa nên tôn giả quyết định trở về nhà kỳ này sẽ lấy hết số vàng đó mang bố thí cho mọi người.

Tôn giả nói: “Vừa rồi gặp thí chủ, ta bỗng nảy ra sáng kiến, nếu ai trả lời được những câu hỏi vừa rồi thì ta sẽ chia bớt số vàng đó”.

Thấy món lợi quá lớn, người đồ tể bắt đầu rối rít xin tôn giả hỏi lại câu hỏi. Tuy nhiên, tôn giả Kaccayana không hỏi lại mà bắt đầu thuyết giảng về luật nhân quả nghiệp báo. Người đồ tể chăm chú lắng nghe đến cực độ. Nhiều người đi ngang qua cũng tò mò kéo đến nghe đến chật ních cả gốc cây.

Sau khi nghe tôn giả thuyết giảng xong, người đồ tể liền chắp tay quỳ xuống trước tôn giả Kaccayana và nói với thái độ thành kính: “Thưa sa môn khả kính, con đã ngộ ra, mọi chuyện trên đời này điều do nhân quả chi phối. Người giàu sang vì đời trước biết bố thí cho người khó khăn, cúng dường cho bậc hiền thiện, người nghèo khó vì đời trước hoặc là phung phí tiền bạc hoặc bỏn xẻn ích kỷ. Con cũng hiểu ra rằng nghề sát sinh của con không bao giờ đưa đến kết quả tốt lành nào cả, con đã sống bằng nỗi đau của chúng sinh. Nay con quỳ trước tôn giả, cầu xin sám hối tất cả tội lỗi của mình, cầu xin tôn giả chứng minh cho con để con không còn tái phạm nữa. Tôn giả đã cho con trăm ngàn lần hơn cả tiền bạc, con xin quy y Đức Phật, quy y Chánh Pháp của Phật và quy y các vị Thánh Đệ Tử của Phật. Trong đó, có tôn giả là người đã khai ngộ cho con hôm nay”.

Năm tôn giả lại tiếp tục lên đường nhưng phía sau có một cô gái đẹp cứ lẽo đẽo bước theo, tôn giả Maha Kaccayana liền đứng lại rồi gọi cô gái đến.

Cô gái chắp tay quỳ xuống và cất lời: “Thưa năm vị tôn giả, sáng nay con được nghe tôn giả thuyết giảng, con xúc động quá nên con muốn tìm cái gì để cúng dường lên năm tôn giả nhưng con nghèo quá chẳng có gì. Con cứ đi theo mà không biết thỉnh làm sao”.

Trước lời trần tình của cô gái, tôn giả Kaccayana bảo: “Này Malixa, hãy đưa chúng ta về nhà con, ta sẽ tìm cho con cái gì đó để cúng dường”.

Thế là năm vị tôn giả theo chân cô gái đến trước một căn nhà lá rách rưới. Người mẹ gầy guộc của Malixa ra vái chào các tôn giả, rồi lúng túng không biết mời các Ngài ngồi ở đâu. Hiểu được hoàn cảnh hai người, tôn giả Maha Kaccayana cất lời: “Chúng ta sẽ đứng đây một lát không sao”.

Lúc này Malixa tiến đến trước tôn giả Kaccayana và hỏi: “Thưa tôn giả, tôn giả xem trong nhà con có gì để cúng dường lên ạ?”.

Tôn giả Kaccayana nhẹ nhàng nhắc khéo với Malixa: “Con có một món rất có giá trị có người mua mà con không chịu bán”.

Sau khi nghe tôn giả bật mí, Malixa chợt nhớ ra và hết sức vui mừng chạy đi bán mái tóc dài, đẹp của mình cho bà gia chủ gần nhà. Lát sau, cô về với đầu đã cạo trọc cùng rất nhiều vải vóc và thức ăn. Mẹ cô thì tìm các khúc cây đem đến mời các tôn giả ngồi tạm.

Khi đã nấu nướng xong, Malixa chắp tay mời năm tôn giả thọ thực và cúng dường một ít vải để các vị trải làm tọa cụ khi ngồi. Cô cúi xin các tôn giả nhận để cô có phước. Đồng thời, hồi hướng công đức này cho những đời sau để cô sinh ra đều được gặp Chánh Pháp, biết tu hành và làm nhiều công đức hơn. Sau khi thọ thực xong, các tôn giả chú nguyện cho cô gái cùng người mẹ đau ốm của cô rồi họ lại tiếp tục lên đường.

Về đến kinh thành Ujjeni của xứ Avanti, các tôn giả liền vào cung gặp Vua Candapajjota. Vừa thấy các tôn giả, Đức Vua liền hỏi: “Này đại thần học sĩ Kaccayana, ta sai khanh đi tìm bậc đại thánh như lời các thương nhân đồn, cớ gì bây giờ khanh trở về với đầu đã cạo trọc, y phục màu hoại sắc, ôm bình bát của khất sĩ và không chịu quỳ chào ta cho đúng nghi lễ”.

Tôn giả Maha Kaccayana trả lời Đức Vua rằng, Ngài không chào Đức Vua theo cách thông thường mà sẽ chào theo cách của Chánh Pháp từ nơi bậc Đại Thánh siêu phàm mà Ngài đã được gặp. Nghe vậy, Đức Vua liền thắc mắc và hỏi tôn giả, thế nào là chào một bậc quân vương theo Chánh Pháp của Đại Thánh? Tôn giả Kaccayana trả lời rằng, theo Chánh Pháp của bậc Đại Thánh giác ngộ Chánh Đẳng Chánh Giác thì khi mình chào ai là mình muốn cho người đó được tăng thịnh năm điều quý giá. Đó là sức khỏe, tài sản, danh tiếng, địa vị và trí tuệ. Cái chào đó không phải xuất phát từ tâm bợ đỡ, nịnh hót, lấy lòng mà cái chào đó phải xuất phát từ trí tuệ chân thành. Sở dĩ, Ngài chào Vua với tâm chân thành, mong ước cho Đức Vua tăng thịnh năm điều cao quý, vì hai lẽ:

– Một là Ngài đã giác ngộ được Chánh Pháp của Đức Phật nên diệt trừ bản ngã thầm kín tư lợi của mình nên yêu quý Đức Vua hơn cả nghìn lần trước đây.

– Hai là khi ra đi, Ngài là đại thần học sĩ nhưng khi trở về đã là đệ tử xuất gia của Phật nên Ngài không được phép cúi mình xuống trước bất cứ ai vì sẽ khiến người đó tổn giảm công đức và mất đi năm điều đáng lẽ phải tăng thịnh.

Sau khi lý giải xong, tôn giả Kaccayana bày tỏ lòng biết ơn với Đức Vua vì nhờ ông mà tôn giả mới gặp Phật và được giác ngộ Chánh Pháp cao siêu. Lắng lòng nghe hết những lời của tôn giả Kaccayana, Đức Vua dần thay đổi thái độ và mời Ngài ngồi lên tòa giảng về Chánh Pháp của Đức Phật để ông và các triều thần Avanti nghe. Khi tôn giả Kaccayana thuyết pháp xong, Đức Vua liền chắp tay quỳ xuống và xin cúng dường Ngài khu đất ở phía đông kinh thành để làm Tinh Xá cho tôn giả và Chư Tăng trú ngụ, giáo hóa cho dân.

Tại vườn Thượng Uyển, tôn giả Maha Kaccayana bảo một tỳ kheo hôm nào đào ít vàng mang tặng cho người đồ tể – người mà Ngài đã độ trong chuyến trở về Avanti.

Vì mặc dù khi ngộ ra Chánh Pháp, người đó không cần vàng nữa nhưng lời đã hứa nên Ngài phải thực hiện. Thoảng nghe qua câu chuyện, Đức Vua Candopajjota bước lại hỏi tôn giả Kaccayana về sự tình và sau đó ông phá lên cười khen tôn giả Maha Kaccayana thật là có sức thuyết phục. Và nhân tiện, tôn giả cũng mang câu chuyện đầy cảm động của Malixa – cô gái nhà nghèo bán tóc cúng dường nhưng lại rất đẹp kể cho Vua nghe. Thế là ngay sau đó, Malixa và mẹ của cô được Vua Candopajjota cho xe ngựa đến đón và đưa hai người vào cung.


TẬP 25: CHA MẸ KIẾP XƯA

Kính chào huynh đệ, như chúng ta đã biết sau Đức Phật thành đạo và thi triển thần thông thì ngày càng có nhiều đệ tử xin được xuất gia theo học đạo, chính vì vậy các thế lực tà đạo luôn tìm đủ mọi cách để hãm hại Người như: Chúng thuê một toán cướp để giết hết các đệ tử của Người nhưng bị ăn nhầm thức ăn lạ dẫn đến ngộ độc và không thể hành động được nữa.

Lần khác, chúng mua chuộc quan coi thành để đưa lính vào khám xét tịnh xá Trúc Lâm đổ tội cho Đức Phật và các đệ tử của Người vì chúng đã giấu tiền vàng trộm được vào đó nhưng thất bại.

Lần thứ ba, chúng cho sát thủ phục kích Đức Phật trên đường Người đi khất thực, một lần nữa chúng lại thất bại do dân chúng kéo đến rất đông bì nghe tin đường đi có rất nhiều vàng. Sau đó chúng trộn thuốc độc vào vật phẩm cúng dường và cho một người phụ nữ đem bỏ vào bát của Đức Phật, lượng thuốc dùng có thể giết chết được năm con voi. Khi Đức Phật đi tới gần người phụ nữ là có người chạy tới đâm vào người phụ nữ hất bát cơm tẩm độc đổ văng, người phụ nữ bị u hết mặt.

Chúng còn đào hầm chông để Đức Phật và tăng đoàn rơi xuống, nhưng một lần nữa đã có người đến đảnh lễ Đức Phật bà thỉnh người về cúng dường thực phẩm.

Còn rất nhiều lần khác bọn tà đạo toan hãm hại Đức Phật nhưng đều thất bại, nên chúng đã tính đến việc trà trộn vào tăng đoàn của Đức Phật để phá từ bên trong.

Lúc này, tại tịnh xá Kỳ Viên, Đức Thế Tôn có một cuộc gặp gỡ với nhóm người nước Koliya và nhóm người thỉnh cầu Đức Phật ban phước lành cho công chúa Suppavasa là vợ của hoàng tử Mahali, mang thai đã được bảy năm nhưng vẫn chưa sinh nở. Đức Phật đồng ý và cùng các tỳ kheo đến thành Koliya. Triều thần ra đón Đức Phật rất đông, hoàng tử Mahali quỳ xuống chân Đức Phật xin Đức Phật chúc phúc cho công chúa Suppavasa và hài nhi. Ngay lúc đó, công chúa đã hạ sinh, hài nhi mới sinh ra là một công tử rất xinh đẹp và khỏe mạnh, sinh ra không khóc mà chỉ cười. Mới bảy ngày, hài nhi này đã lớn bằng đứa trẻ năm tuổi.

Ngày lễ đặt tên Đức Phật hỏi Mahali: “Ông đặt tên con là gì?”

Mahali thưa: “Bạch Thế Tôn, con đặt tên con là Sivali ạ”, nói rồi Mahali đưa Sivali đến bên Đức Phật. Phật đặt tay lên đầu Sivali và chỉ qua tôn giả Sariputta (Xá Lợi Phất).

Tôn giả Xá Lợi Phất nắm tay Sivali và hỏi: “Này chú, bảy năm trong bụng mẹ chú có an lạc không chú Sivali?”

Sivali: “Thưa tôn giả sao mà con an ổn được khi ở trong một bầu máu như thế được ạ’’.

Trước câu trả lời của Sivali cả triều đình sửng sốt, thật là kỳ lạ, đứa trẻ mới được bảy ngày mà bằng đứa trẻ năm tuổi. Công chúa Suppavasa xin Đức Phật cho Sivali được xuất gia vì bảy năm trong bụng công chúa, Sivali đã thấm được nỗi khổ của kiếp người. Đức Phật đồng ý cho Sivali xuất gia. Khi tôn giả Xá Lợi Phất cạo đường tóc thứ nhất, Savali chứng quả Tu Đà Hoàn. Tôn giả cạo đường thứ hai, Sivali chứng quả thánh thứ hai – Tư Đà Hàm. Tôn giả cạo đường thứ ba Sivali chứng quả thánh thứ ba – A Na Hàm. Tôn giả cạo đường tóc thứ tư, Savali chứng quả thánh thứ bốn – A La Hán. Sau đó sa di Sivali đi lững thững theo Phật và chư tăng rời khỏi kinh thành.

Đức Phật và chúng tăng cùng Sivali đi về phía Nam. Đêm tới, chư Thiên đã hiện ra cúng dường chỗ ở cho Đức Phật và tăng đoàn, và còn cúng dường cả những loại trái cây mà chưa ai từng thấy. Tôn giả Lahula hỏi tôn giả NanDa:

“Vì đâu mà có cảnh tượng này?”

Tôn giả NanDa trả lời: “Do phước của Sivali rất lớn, được chư thiên yêu mến. Do trong tiền kiếp Sivali đã bố thí cúng dường nhiều không tính kể, chăm lo cho nhân dân và mọi người xung quanh, dạy dân đạo đức nên thần dân được sinh thiên rất đông nên bây giờ các vị chư thiên đó quay lại cúng dường để đền ân kiếp xưa”.

Tiếp theo một câu chuyện khác, trên đường Đức Phật thấy một người nông dân đang cuốc ruộng, ông ta ngừng cuốc nghĩ thầm: “Bây giờ mà bỏ cuộc chạy ra đảnh lễ Thế Tôn thì mắc công quá, lần sau Thế Tôn còn đi ngang mà, nghĩ rồi ông ta cuốc tiếp”.

Đức Phật nói với chư Tăng: “Này các tỳ kheo, người nông dân đó có vài lần gặp các vị thánh tăng trong lúc làm việc và lúc nào cũng hẹn lần sau nên không khá lên được mà cứ cuốc đất mãi”.

“Nghìn muôn kiếp luân hồi

Khó gặp bậc xuất thế

Nếu đã gặp được rồi

Hãy cúi đầu đảnh lễ

Gieo phúc đến nghìn đời

Thiện căn bền gốc rễ”.

Tôn giả Xá Lợi Phất thưa: “Kiếp xưa con là một người giàu có và được gặp được một vị Độc Giác Phật, con đã bỏ việc để cúng dường Người và đi theo ngài mấy dặm đường”.

Đức Phật nói với ngài Xá Lợi Phất: “Có kiếp Như Lai cũng là một người giàu có, có khi gặp được vị Độc Giác Phật ta đã bỏ hết tài sản để xây cho ngài một pháp tòa có sân rộng để thuyết pháp”.

Tôn giả Anuruddha: “Thưa bạch Thế Tôn, con nhớ có kiếp con cũng là người giàu có khi gặp vị Độc Giác Phật con đã bỏ việc để xây cho ngài một tịnh thất có vườn cây rộng rãi”.

Một câu chuyện khác, sau khi xin phép Đức Phật tách đoàn để về lại tịnh xá Trúc Lâm, hai tôn giả Moggalana (Mục Kiền Liên) và tôn giả Subhuti (Tư Bồ Đề) đã độ thế cho một nhóm người đang muốn giết một đàn dê để hiến tế nữ thần và nói cho họ biết rằng con vật nào sau khi bị giết cũng đau đớn kêu la thảm thương chẳng khác gì con người nên không giết chúng và dặn mọi người phải yêu thương nhau. Có nhiều người không tin nên tôn giả Tư Bồ Đề cho họ thấy thần thông của mình rồi nói ai giết hại chúng sinh truyền giao tín để làm đẹp lòng ai đó sẽ bị đọa địa ngục tàn khốc.

Tôn giả Tư Bồ Đề là một vị tôn giả có lòng từ bi cao cả. Một lần, khi tôn giả một mình đi vào rừng có một con cọp rình rập tấn công, nhưng nhờ sự thần thông và ánh sáng từ bi của tôn giả đã làm cho con cọp dừng lại và quy phục vì tôn giả cho con cọp thấy được tiền kiếp và khiến nó hiểu ra được duyên nghiệp dẫn đến bị đọa thân cọp. Và có lần cọp đã bên vực cha của tôn giả nên kiếp này mới được tôn giả độ cho. Sau đó, cọp xin quy y rồi bỏ thân qua đời.

Một lần nữa, tôn giả Tư Bồ Đề đã dùng thần thông của mình độ cho một người nghèo khổ nhưng đã cúng dường tôn giả rau luộc và củ rừng luộc. Tôn giả cho người nông dân biết nguyên do vì sao kiếp này nghèo khổ, vì kiếp trước ông ta giàu có nhưng hay chê trách người nghèo, phí phạm tiền bạc vào việc vô ích. Tôn giả còn giảng về Nghĩa Không cho các vị tỳ kheo trong thị trấn ở nước Magadita (Ma Kiệt Đà) và cả Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Đoàn Tăng chúng cùng Đức Phật đi về phía khu rừng thị trấn Sankassa phía tây Savathi thì được các vị phi nhân là thủy sinh dưới sông cúng dường nơi ở. Tôn giả Nanda giải thích cho Lahula cũng do các vị phi nhân cảm mến Sivali mà đến về phía tà đạo vẫn ngấm ngầm theo dõi Đức Phật và tăng đoàn nhưng đều thất bại.

Khi Đức Phật và tăng đoàn tiến vào thị trấn thì đã gặp được cha mẹ kiếp xưa của người ở Sankassa. Đức Phật nhìn trìu mến ông lão rồi cùng ông lão về nhà để gặp lại người thân của Người, cha mẹ kiếp xưa của Người đã nắm tay người và khóc.


TẬP 26: BÀI KINH TRÊN SÔNG

Đức Phật đứng yên lặng lẽ nhìn hai ông bà lão đang nắm tay và quỳ hai bên mình một cách trìu mến. Lúc sau, hai ông bà chắp tay thỉnh Người cùng Chư Tăng vào nhà ngồi nghỉ và cúng dường thực phẩm. Sau khi Đức Phật thọ thực xong, ông lão nói: “Này con trai, con hãy về đây ở, nhà mình rộng rãi. Cha mẹ sẽ lo cho con đầy đủ, không cần phải ở ngoài khu rừng Anjanavana nữa”.

Đức Phật trả lời: “Cha và mẹ à, truyền thống của Chư Phật ba đời là không ở lâu nhà ai và cũng không ăn cơm nhà ai mãi”. Người nói Người sẽ về khu rừng ở Sankassa để an cư ba tháng mùa mưa sắp tới. Tuy nhiên, Người sẽ tới lui để thuyết pháp cho ông bà cụ nghe đạo lý của Chư Phật. Sau khi nói xong, Đức Phật và Chư Tăng ra về.

Tại Tinh Xá Trúc Lâm, tôn giả Subhuti (Tu Bồ Đề) thưa với tôn giả Moggalana (Mục Kiền Liên) và các chư hiền giả về việc thăm khu rừng mà Đức Phật đã tu hành đắc đạo gần làng Uruvela. Tôn giả nói, Ngài sẽ về đó an cư trong ba tháng mùa mưa. Sau đó, sẽ quay về Trúc Lâm rồi mới về Kỳ Viên.

Đáp lời tôn giả Subhuti, tôn giả Moggalana nói: “Tôn giả Subhuti hãy bảo trọng và nhớ thăm viếng dân làng Uruvela – những người đã từng có lòng hộ trì khi Đức Phật đang tu hành khổ hạnh”.

Tôn giả Subhuti vừa khuất bóng thì một tỳ kheo thắc mắc hỏi tôn giả Moggalana rằng, hôm trước Vua Bimbisara (Bình Sa) có hứa là sẽ xây tịnh thất cho tôn giả Subhuti nếu tôn giả ở lại nước của ông. Nhưng bây giờ tôn giả Subhuti đi về làng Uruvela an cư thì liệu Vua có biết để xây nhà không? Tôn giả Moggalana điềm nhiên bảo, mọi việc hãy để tùy duyên.

Băng qua rừng, qua làng mạc đến làng Uruvela, tôn giả Subhiti được người dân đón tiếp rất nồng hậu. Họ bày tỏ, họ nhớ Đức Phật rất nhiều và ước mong được gặp lại Người. Rồi họ dẫn tôn giả đến khu rừng mà trước đây Đức Phật đã khổ tu và hỏi thêm tôn giả có cần trợ giúp gì không… Đợi khi mọi người về hết, tôn giả Subhiti ngồi Thiền dưới gốc cây và sau đó là bên bờ sông Ni Liên Thiền.

Bình minh lên, dân làng mang vật thực vào cúng dường tôn giả rồi nghe Ngài thuyết pháp. Sau hàng loạt thắc mắc của người dân quanh việc tu khổ hạnh của Đức Phật, tôn giả Subhiti trả lời: “Này các gia chủ, các vị thật diễm phúc khi được Thế Tôn về đây tu hành và chứng đạo Vô Thượng Đẳng Giác. Khu làng này sẽ mãi mãi được loài người yêu mến kính trọng và Chư Thiên sẽ mãi mãi bảo hộ”.

Tôn giả cho biết, trước khi Đức Phật đến đây khổ tu thì Người đã chứng đạt thiền định rất cao siêu, có thần lực phi thường chỉ vì chưa tìm được trạng thái vô ngã tận cùng nên Người đã vất vả công phu, trải nghiệm đủ cách, đủ các tư thế Yoga nhưng vẫn không giải thoát. Do đó, Người đã ăn uống lại cho bình phục sức khỏe và đi sâu vào thiền định để đến tận cùng vô ngã. Và lần này, Người đã chứng đạt vô ngã, đắc thành đạo quả vô thượng dưới cội cây Asattha. Các anh em Kondanna vì cố chấp ý mình, không hiểu được trí tuệ của Đức Phật nên đã bỏ Người, qua bên kia sông Hằng ẩn náu trong khu rừng Nai vì sợ Vua Sudodana trách phạt.

Tuy nhiên, sau khi thành đạo, Đức Phật đã tìm đến độ cho năm anh em chứng được đạo quả A La Hán. Phải nói đã từ rất lâu, rất lâu, trên thế gian này mới có một Đức Phật xuất hiện như thế. Đức Phật là Thầy của Tam giới, Thầy của muôn loài, là bậc Cha lành của tất cả chúng sinh nên mọi người hãy nhất tâm trọn lòng quy y theo Phật.

Còn Sujatha là người có sứ mệnh phải chăm lo cho Đức Phật và năm vị Kondanna, xong nhiệm vụ thì cô ra đi. Hiện nay, cô đã xuất gia tu hành theo Đức bà Gotama và cũng đã chứng quả A La Hán. Riêng người phụ nữ sang trọng mà mọi người nhìn thấy chính là công chúa Yashodara. Bây giờ, bà cũng đã lãnh đạo Ni đoàn rất xuất sắc, bà cũng đã chứng quả A La Hán.

Một buổi sáng, một người đàn ông mang sữa vào rừng cúng dường tôn giả Subhuti. Rồi ông thưa với tôn giả chẳng biết sao năm nay mưa muộn quá nên người dân không ai gieo cấy được gì cả. Hạn hán thế này chắc dân đói khổ chết hết quá… Tôn giả im lặng, trầm ngâm và không nói gì.

Ở kinh thành Vương Xá, dân tình khắp nơi đều oán thán, không hiểu vì sao năm nay lại hạn hán. Đồng ruộng khô cằn không ai trồng cây gì được. Tình hình nếu tiếp tục kéo dài thì giá gạo ở kinh thành sẽ tăng cao, sẽ đói khổ và cướp bóc sẽ hoành hành…

Trong cung điện Vua Bimbisara (Bình Sa), tin tức về hạn hán nhanh chóng được truyền đến tai Vua. Sau khi nghe báo cáo tình hình, ông liền đến Tinh Xá Trúc Lâm để hỏi tôn giả Moggalana (Mục Kiền Liên) về việc này. Đến nơi, Vua kể về tình trạng trên và hỏi tôn giả có phải là do thần mưa giận ông hay ông có làm gì sai chăng?

Tôn giả Mogalana không trả lời mà nhắc khéo Vua rằng: “Này Đại Vương, thật sự là trên đời này có nhiều lỗi mà không phải do ta cố ý chỉ là do ta quên mà thôi”.

Rồi người gợi ý: “Có thể Đại Vương đã quên chuyện gì nên khiến trời không mưa vì sợ ướt ai đó chăng?”.

Tôn giả nói đến đây, Vua Bimbisara chợt nhớ trước đây ông có hứa xây cất Tịnh thất cho tôn giả Subhiti nếu Ngài đến làng Uruvela an cư ba tháng mùa mưa. Chỉ vì ông quên cất mà trời đã không mưa vì sợ ướt tôn giả. Trong phút chốc, Vua Bimbisara ngộ ra và hết lời tán thán đức độ của tôn giả Subhiti bao trùm cả cõi trời. Thế là Vua vội từ giã tôn giả Moggalana để về lo việc xây cất tịnh thất cho tôn giả Subhiti.

Đúng như lời tôn giả Moggalana nói, sau khi cất Tịnh thất xong, tôn giả Subhiti bước vào Tịnh thất và ngồi lên chiếc giường tre thì bên ngoài sấm sét ì đùng. Mây đen hiện ra che tối cả trời đất và mưa ào ào đổ xuống… Những con suối bắt đầu sống lại. Những cánh đồng phút chốc đã đầy ăm ắp nước. Mưa tắm mát cả kinh thành Vương Xá khiến dân chúng khắp nơi chạy túa cả ra đường, vui mừng hò reo,… Về phần Vua Bimbisara, đứng trên lầu cao nhìn mưa rơi, nhà Vua lại càng thán phục uy đức của tôn giả Subhuti. Đồng thời, qua việc này nhà Vua cũng đã ngộ ra được nhiều điều của trời đất và biết rằng sẽ cần phải tu dưỡng nhiều hơn.

Ở một không gian khác, tại khu rừng thuộc ngoại ô Sankanssa, dòng người lũ lượt tụ về để nghe Đức Phật thuyết pháp. Với dáng vẻ vô cùng uy nghi và rực rỡ trên pháp tòa, Đức Phật bắt đầu thuyết rằng: “Này đại chúng, Chánh pháp là thiết thực, hiện tại, không thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình tin hiểu.

Này đại chúng, thế nào là Chánh pháp phải thiết thực? Chánh pháp phải thiết thực nghĩa là có thể nhìn thấy trong đời sống thực tế này, không phải chỉ là những lý luận suông hay tưởng tưởng tượng xa xôi.

Này đại chúng, thế nào là Chánh pháp phải là hiện tại? Nghĩa là Chánh pháp đó phải có thể được tu tập ngay trong hiện tại, không phải hứa hẹn, đợi chờ đến một lúc nào khác.

Này đại chúng, thế nào là Chánh pháp là không thời gian? Nghĩa là Chánh pháp phải đúng với bất cứ thời điểm nào. Dù ngày xưa, bây giờ, hay vị lai cũng vậy.

Này đại chúng, thế nào Chánh pháp là đến để mà thấy? Chánh pháp đến để mà thấy là Chánh pháp có thể thực hành và thấy rõ kết quả, chứ không phải chỉ thực hành và tin suông.

Này đại chúng, thế nào là Chánh pháp có khả năng hướng thượng? Nghĩa là Chánh pháp phải có khả năng chuyển hóa chúng sinh từ phàm phu thành bậc Hiền Thánh, cao cả một cách thật sự.

Này đại chúng, thế nào là Chánh pháp được người trí tự mình tin hiểu? Nghĩa là tất cả các bậc trí tuệ trong các cõi đều hiểu được giống như thế, làm được như thế và chứng nghiệm giống như thế.

Này đại chúng, ví dụ như Như Lai tuyên thuyết về niệm thân, thấy thân là vô thường thì đó là điều có thực, không phải huyền hoặc xa xôi. Ngay trong hiện tại ai cũng quán thân này vô thường được cả. Trước kia, bây giờ, sau này, ai cũng quán thân vô thường được cả. Ai quán thân vô thường đều thấy rõ mình đạt được trạng thái tâm tỉnh giác chứ không phải tin suông. Việc quán thân vô thường khiến cho hành giả dần dần thoát khỏi chấp ngã, đạo đức tăng trưởng và chuẩn bị nhập thiền định sâu xa. Bất cứ bậc Thánh nào trong ba cõi đều hiểu rõ lợi ích của việc quán thân vô thường là như thế”.

Chợt ông bà lão Nakula (hai người tự xưng là cha mẹ của Đức Phật) rúng động toàn thân và thốt lên: “Thế gian là vô thường, cái gì có sinh đều có diệt, ta không trở lại cõi này nữa”.

Sau thời pháp các cư sĩ kéo nhau ra về. Lúc này, sa di Rahula mới chắp tay và hỏi Đức Phật về câu nói không trở lại cõi này nữa của ông bà cụ.

Đức Phật trả lời: “Này Rahula, ông bà cụ Nakula đó đã chứng được Tam quả A Na Hàm nên sẽ sinh về cõi trời Sắc Cứu Kính và không tái sinh lại cõi người này nữa. Này Rahula, ông bà cụ đó rất nhiều đời đã từng là cha mẹ, cô chú của Như Lai nên bây giờ gặp lại, cái cảm giác thấy Như Lai là con vẫn còn nguyên. Vì thế, khi gặp Ta, ông bà cụ mới xúc động mạnh như vậy. Nay Như Lai đã đến để độ cho ông bà cụ chứng Tam quả, xem như đền được ân nghĩa nhiều đời”.

Một buổi chiều, có nhiều cư sĩ đến khu rừng thăm Phật và Chư Tăng. Và trong đó, có một đạo sĩ Janussi thuộc dòng dõi Bà La Môn chắp tay quỳ xuống trước Phật và thưa rằng: “Trong dòng dõi Bà La Môn giáo của chúng con có nhiều vị tu hành đắc đạo, có thần thông, có Tam Minh. Nhưng con nghe tôn giả Gotama và các đệ tử cũng có Tam Minh giống như Bà La Môn chúng con. Vậy thì tôn giả Gotama cũng đi theo con đường của kinh Vệ Đà? Sự tình là như vậy có đúng chăng, thưa tôn giả Gotama?”.

Trước thắc mắc của Janussi, Đức Phật ân cần hỏi: “Này Bà La Môn, hãy nói cho Như Lai nghe Tam Minh của các ông là những gì rồi Như Lai sẽ nói ông nghe Tam Minh của Như Lai là thế nào, xem có giống nhau không?”.

Vị Bà La Môn đáp: “Thưa tôn giả Gotama, Tam minh của chúng con gồm những thứ sau:

Một là vị này hiểu được nghĩa lý kinh điển Vệ Đà không còn gì sai sót cả.

Hai là vị này có thể hiểu được ý của thần linh đang muốn gì để mà cúng tế cho đúng ý các vị ấy, khiến các vị vui lòng độ trì cho chúng ta.

Ba là vị này có thể hiểu được thời thế xã hội vận hành ra sao nên có thể cho chúng sinh lời khuyên tốt lành nhất để tránh tai ương, hoạn nạn”.

Sau khi nghe Janussi nói về Tam minh của Bà La Môn, Đức Phật từ tốn trả lời: “Này Janussi, hãy lắng nghe Như Lai nói Tam Minh trong chánh pháp của Như Lai là những gì. Này Janussi, có một thanh niên đang tuổi xuân nghe được giáo pháp của Như Lai rồi tự nghĩ cuộc đời đầy những ràng buộc khổ đau. Nên đã xin cha mẹ được xuất gia theo Chánh pháp và luật của Như Lai. Sau khi xuất gia làm tỳ kheo, người này thúc liễm thân tâm trong giáo pháp, biết rõ điều nhân quả tội phước, tránh điều ác và làm điều thiện, giữ tâm hòa ái khiêm cung với mọi người, sống biết đủ với ba y bình bát khất thực ngày một bữa.

Này Janussi, vị tỳ kheo này đến gốc cây hay nhà hoang, ngồi kiết già với tâm tỉnh giác hoàn toàn. Bắt đầu an trú toàn thân, cảm giác khắp toàn thân, quán thân này là vô thường sẽ già bệnh chết, sau khi chết, thân tan hoại như bụi đất. Này Janussi, vị này chứng được Chánh Niệm Tỉnh Giác, tâm sáng suốt tự kiểm soát được chính mình. Nơi trạng thái Chánh Niệm Tỉnh Giác này, vị đó lần lượt diệt trừ năm triền cái là: tham lam, sân hận, trạo cử (nhúc nhích khi ngồi thiền), hôn trầm, nghi hối (chưa vững tin).

Này Janussi, vị tỳ kheo đó bắt đầu nhập Sơ Thiền, ly dục (mất bản năng ái dục), ly bất thiện pháp (rất mực đạo đức), còn tầm còn tứ (kiến giải lý luận vi tế), toàn thân cảm thọ hỷ lạc.

Này Janussi, vị tỳ kheo vượt khỏi Sơ thiền để nhập Nhị Thiền, nhất tâm định tĩnh (thật sự hết niệm), toàn thân tuôn trào sức sống vi diệu như hồ nước phun trào không bao giờ tràn cũng không bao giờ cạn. Vị ấy cảm thọ niềm an lạc khắp toàn thân đến từng ngón tay, ngón chân, thân tâm lúc này như cả hư không trào dâng sức sống.

Này Janussi, vị tỳ kheo ấy, tiếp tục vượt khỏi Nhị Thiền để nhập Tam Thiền, thân tâm lúc này như cả hư không trào dâng sức sống, sự an lạc vi tế phủ trùm cả toàn thân, không chỗ nào là không cảm thọ an lạc.

Này Janussi, vị tỳ kheo ấy tiếp tục vượt khỏi Tam Thiền để nhập Tứ Thiền, toàn thân đều là ánh sáng tỉnh giác, cả pháp giới nằm gọn trong hạt bụi.

Này Janussi, vị tỳ kheo ấy bắt đầu nhớ lại từng kiếp sống xa xưa, bắt đầu với kiếp vừa rồi, xa dần đến tận đầu mối tử sinh. Vị đó nhớ mỗi kiếp cha mẹ là ai, mình tên là gì, đã làm hạnh nghiệp gì, thọ quả báo ra sao. Và như vậy vị đó chứng đạt được Túc Mạng Minh.

Này Janussi, rồi vị tỳ kheo ấy quan sát sự lưu chuyển của chúng sinh trong các cõi, giống như một người đứng trên lầu cao tại ngã tư đường nhìn người qua lại. Cũng vậy, vị ấy nhìn thấy chúng sinh gieo nghiệp gì, tái sinh về đâu, thọ báo ra sao, như vậy, vị ấy chứng được Thiên Nhãn Minh.

Này Janussi, rồi vị ấy nhìn thấu cả bản chất của vũ trụ, của cuộc sống, để biết rằng đời là bể khổ, biết được nguyên nhân của khổ là do ái, biết rõ Niết Bàn là nơi giải thoát mọi đau khổ, như vậy, vị ấy chứng được Lậu Tận Minh. Thành tựu Tam minh như thế, vị tỳ kheo ấy trở thành một vị A La Hán”.

Sau khi nghe Đức Phật thuyết giảng một cách cặn kẽ về Tam minh trong Chánh pháp của Đức Phật, Janussi quỳ lên bật khóc như mưa, rồi nói rằng nếu hôm nay không có Người nói ra thì ông sẽ mãi mãi không bao giờ biết đến những điều vi diệu như thế này… Đồng thời, ông cũng xin Phật được quy y với Người, quy y với Chánh pháp của Người, quy y với tất cả Thánh đệ tử của Người,…

Một buổi sáng, trời khô ráo, tại khu rừng, Đức Phật bảo: “Này các tỳ kheo, hôm nay đã hết mùa mưa, Như Lai sẽ du hành về phía Tây Nam đến thăm Kosambi để khuyến tấn cho các tỳ kheo ở đó tu hành. Các tỳ kheo ở đó ít có thời gian được sống gần những vị Thánh tăng đệ tử nên ngôn hạnh còn sơ xuất nhiều quá”. Sau khi Phật nói xong, tôn giả Sariputta chắp tay xin phép quay về Kỳ Viên để trông coi tăng chúng. Đồng thời, để sa di Sivali đỡ vất vả, tôn giả cũng xin phép đưa sa di ấy cùng về, Đức Phật im lặng đồng ý…

Trước chuyến du hành của Đức Phật, cư dân Sankassa sụt sùi tiễn đưa. Ông bà cụ Nakula cũng đến tiễn đưa và dặn dò Người đi đường bảo trọng, họ sẽ ở Sankassa này để giữ gìn Chánh pháp của Người và sáu năm sau lúc mà có nhiều tỳ kheo Thánh tăng về đây, họ sẽ ra đi. Đêm đến, Đức Phật và các Chư Tăng nghỉ lại giữa rừng và ngồi Thiền dưới các tàn cây. Riêng sa di Rahula đi ra ngoài một đoạn xa, liền có các thám tử đến tấu trình công việc. Họ báo cáo người em út của tôn giả Sariputta vừa đến Tinh Xá Trúc Lâm ở Rajagaha để xin xuất gia, được tôn giả Moggalana cạo tóc. Tuy nhiên, theo người thám tử thì câu chuyện này rất ngộ nghĩnh.

Chuyện là mẹ của tôn giả Sariputta tổ chức đám cưới cho người con trai út là Revata (Ly Bà Đa) rất long trọng. Bởi trước Revata, mọi người đều xuất gia theo gương của tôn giả Sariputta. Tuy nhiên, khi đám cưới đang vui vẻ với họ hàng đông đủ, có cả bà cố tổ già gần trăm tuổi tham dự, thì bất chợt có một mụ hàng xóm bật lên câu chúc hết sức tai hại rằng: “Ta chúc hai cháu sống thọ như bà cố tổ đây, cô dâu sẽ sống thọ như bà cố tổ đây”. Khi ấy, chú rể Revata quay lại thì thấy bà cố tổ già khọm, hom hem, nhăn nheo, răng rụng gần hết, tóc bạc trắng cả đầu, hai mắt mờ đục vô hồn, lưng còng như mái nhà. Chú sững người như nhìn thấy ma rồi vội bước ra ngoài, sau đó, đi mất biệt. Sáng hôm sau, có tin báo là Revata đã bỏ đi xuất gia theo anh trai Upasana (Xá Lợi Phất). Nhận được tin, đức bà Sari – mẹ của Revata cực kỳ căm giận vì chẳng còn người con nào còn ở lại trong gia đình cả, bà căm giận tuổi già cô độc của mình.

Nghe xong câu chuyện, Rahula trầm ngâm nói với vị thám tử: “Hậu quả không tránh được là bà Sari sẽ oán giận Thế Tôn vì cho rằng Thế Tôn đã làm bà mất hết con. Do đó, ngươi hãy lập một nhóm thám tử thường xuyên ở bên cạnh bà cụ để chăm sóc và cũng để khuyên bà đừng phiền não hay nói năng bậy bạ nhé! Nhất là ngăn không cho bà kích động thêm họ hàng chống lại Thế Tôn. Ta sẽ lệnh cho xuất vàng bạc để phụng dưỡng cho bà chu đáo. Vì dù sao, bà cũng là mẹ của sáu tỳ kheo, trong đó, tôn giả Sariputta là Thượng thủ thống lĩnh tăng đoàn, ân tình của bà đối với tăng đoàn là vô cùng to lớn”. Rahula nói xong, vị thám tử tuân lệnh rồi biến nhanh vào màn đêm.

Trời sáng, Đức Phật và Chư Tăng đi khất thực. Riêng Rahula, do không thể nhớ hết bài pháp: “Chánh pháp là thiết thực, hiện tại, không thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình tin hiểu” của Đức Phật nên tìm tôn giả Ananda, nhờ Ngài nói lại bài pháp cho mình nghe. Vì nổi tiếng là người có năng lực cường ký, nhớ được tất cả những gì nghe qua tai nên sau nghe tôn giả Ananda giảng lại, Rahula vô cùng khâm phục tôn giả. Rahula ước gì tôn giả Ananda có thể theo hầu bên cạnh Đức Phật mãi mãi, để ghi nhớ lại tất cả lời thuyết pháp của Đức Phật đồng thời giữ gìn lại cho muôn đời sau.

Vì vậy mà Rahula đã đến đảnh lễ Phật và xin phép Phật cho tôn giả Ananda thường xuyên đi theo Người để nghe tất cả bài pháp Người, rồi trùng tụng lại cho mọi người cùng nghe. Đồng thời, Rahula cũng xin phép Đức Phật vào buổi chiều sau khi tăng chúng ra khỏi thiền định và các cư sĩ đi viếng thăm cũng đã ra về, mọi người chưa thể bước vào một thời thiền khác thì tăng đoàn sẽ ngồi lại với nhau trùng tụng lại các bài pháp mà Người đã giảng…

Lúc đó, tôn giả Kimbila cũng quỳ lên thưa: “Bạch Thế Tôn, ý kiến của sa di Rahula thật là hay. Nếu tăng chúng chiều nào cũng trùng tụng kinh pháp như vậy, tức là giữ gìn được Chánh pháp của Thế Tôn cho muôn đời sau.

Bạch Thế Tôn, những vị tỳ kheo nào chứng được Thánh quả A La Hán đều có cảm giác không cần nghe học thêm gì nữa.Tâm tư vị đó có nguồn trí tuệ vô biên có thể khởi sinh ra vô lượng đạo lý. Còn những vị tỳ kheo nào chưa chứng được A La Hán thì cũng cần nghe giáo pháp mãi để định hướng tu hành cho đúng.

Bạch Thế Tôn, nếu việc trùng tụng giáo pháp của Thế Tôn được thực hiện mỗi chiều sẽ là sinh khí cho các Tinh Xá trú xứ của Chư Tăng, chư Thiên A Tu La, Dạ Xoa, Ngạ Quỷ đều sẽ tề tựu về, nghe Chư Tăng trùng tụng giáo pháp, ngay cả khi vắng mặt Thế Tôn,…”. Đức Phật im lặng nhận lời.

Buổi chiều, tôn giả Ananda ngồi ở giữa các vị tỳ kheo và sa di ngồi vây quanh nghe tôn giả trùng tu lại các bài Pháp mà Đức Phật đã thuyết giảng, tôn giả nói đến đâu các vị tỳ kheo liền trùng tụng lại theo đến đó…

Lúc này, sa di Rahula lẻn ra ngoài đến lùm cây và nghe các thám tử báo cáo về việc xem xét tình hình ở Kosambi trước để chuẩn bị cho chuyến du hóa của Đức Phật. Theo lời các thám tử thì ở Kosambi có nhiều tỳ kheo xuất gia theo Pháp và Luật của Đức Phật. Nhưng không có một trú xứ rộng lớn làm Tịnh xá chính thức nên các tỳ kheo rải rác nơi này nơi kia theo từng nhóm.

Bên cạnh đó, đạo hạnh của các tỳ kheo ở đấy cũng bị than phiền vì dường như nào giờ không có một vị Thượng thủ nào dẫn dắt dạy dỗ. Ngoài ra, Vua Udena (Ưu Điền) của xứ Kosambi trước đây, quy y với tôn giả Pindola Bharadvaja (Tân Đầu Lư Phả La Đọa), nhưng chưa bao giờ nhìn thấy dung mạo của Đức Phật. Do đó, ông rất tò mò nên cho người điêu khắc giả làm cư sĩ đi theo Đức Phật ở các nơi, rồi về tạc lại tượng của Đức Phật cho ông xem. Vua Udena đó cũng vừa cưới thêm một thứ phi là Magamdiya cực kỳ xinh đẹp.

Trong khi Vua cũng mến đạo một cách vừa phải, Hoàng Hậu Samavati thì cực kỳ mộ đạo thì Thứ phi Magamdiya lại lạnh nhạt khi nghe nói đến đạo giáo. Nhưng rất lạ là cha mẹ của Thứ phi Magandiya lại cực kỳ tôn kính Đức Phật. Chỉ riêng Thứ phi thì hờ hững chẳng quan tâm còn các nhà ngoại đạo ở Kosambi cũng truyền đạo sôi nổi lắm. Nhưng trước kia có một số gặp tôn giả Ananda thuyết giảng nên từ đó cũng có cảm tình với Tăng đoàn của Đức Phật hơn. Nhìn chung, tình hình ở Kosambi khá yên ổn. Đời sống bình an nhân dân khá giả no đủ không có cướp trộm thành băng đảng. Do đó, các thám tử nghĩ Đức Phật về Kosambi chỉnh đốn lại tăng chúng sẽ thuận lợi lắm.

Sau khi nghe báo cáo tình hình, Rahula cẩn thận dặn dò rằng họ vẫn chưa biết Đức Phật sẽ đến Kosambi sớm hay muộn. Vì có khi Người sẽ ghé nơi này nơi kia để giáo hóa.

Do đó, Rahula nói với các thám tử rằng: “Ta muốn khi Đức Phật đến nơi thì phải có chỗ ở đàng hoàng. Các ngươi hãy lấy vàng bạc từ quỹ và gấp rút tạo dựng một Tinh Xá tại Kosambi nhưng phải làm cho kín đáo, đừng để lộ liễu”. Các thám tử tuân lệnh sau đó lặng lẽ biến mất trong bóng đêm.

Sa di Rahula quay người lại thì thấy tôn giả Nanda đã đứng đấy tự bao giờ, tôn giả Nanda lên tiếng bảo: “Này Rahula lâu quá ta chưa nói cho con nghe về võ công, về thiền định sẵn đêm nay con có vẻ khỏe nên ta muốn nói chuyện với con chút. Này Rahula, dòng dõi Khattiya (Sát Đế Lợi) của chúng ta giữ bí truyền một phương pháp luyện công lực phi thường, nhờ siêng năng luyện tập bí quyết đó mà con cũng có nhiều sức khỏe so với bạn đồng trang lứa. Bây giờ con đã gần mười lăm tuổi rồi, đã cao lớn gần như thanh niên trưởng thành rồi, trí tuệ con rất thông sáng. Những việc con điều khiển chỉ huy lực lượng thám tử rất xuất sắc mà ngay cả ta và mẹ con ngày xưa cũng không bằng được. Này Rahula con phải biết rằng nội lực và thiền định rất liên quan đến nhau. Ai có nội lực sung mãn cũng dễ dàng chứng đạt thiền định hơn”.

Khi tôn giả Nanda nói đến đây thì Rahula vội ngắt lời: “Nhưng thưa tôn giả, sao con thấy có nhiều người chẳng có chút nội lực nào mà cũng chứng A La Hán nhanh như chớp vậy? Như đệ Sivali, con của công chúa xứ Koliya với hoàng tử Mahali, sau khi sinh bảy ngày đã chứng A La Hán. Hoặc như Hoàng Hậu Khema của Vua Bimbisara (Bình Sa) chỉ lần đầu nghe Thế tôn giảng là chứng luôn A La Hán, nhiều khi con cũng tủi thân tu hoài không chứng gì cả”.

Sau khi nghe Rahula trình bày quan điểm và ưu uất trong lòng, tôn giả Nanda từ tốn nói: “Này Rahula, như tôn giả Ananda là dòng dõi hoàng tộc Sakiya (Thích Ca) cũng chỉ chứng Tu Đà Hoàn rồi đứng hoài ở đó. Tôn giả Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) cũng chỉ nhập vài mức thiền định rồi đứng hoài ở đó.Việc chứng đạt Thánh quả còn liên quan đến phước báo nhiều đời nữa con à. Tuy nhiên, ai có được nội lực sung mãn sẽ dễ dàng nhiếp tâm hơn người khác. Này Rahula, nhân duyên của con chưa tới lúc phải chứng Thánh quả nên con cứ phải tinh tấn mãi như thế. Trong lúc này vì bận phải điều khiển lực lượng thám tử nên con rất hao tốn trí lực. Con mà thiếu nội lực thì kiệt sức ngay. Đêm nay ta dạy con thêm bí quyết luyện nội lực tiếp”.

“Này Rahula, bao nhiêu phương pháp luyện nội lực trước kia đều giúp con hình thành một vùng tích trữ nội lực dưới bụng. Bụng dưới có một tính năng chứa nội lực, đó cũng là trọng tâm của toàn bộ cơ thể. Ai biết an trú tâm ở bên trong bụng dưới sẽ ổn định thần kinh não và dần dần hình thành nội lực phi thường. Tuy nhiên, ai dằn ép muốn trụ tâm cho mạnh vào bụng dưới thì sẽ bị lực bốc lên làm hư não và trở thành phế nhân.

Này Rahula, Thế Tôn hay dạy đại chúng phải an trú toàn thân, cảm giác toàn thân, biết rõ toàn thân, cảm nhận tạng phủ bên trong và quán thân vô thường tạm bợ. An trú như vậy vừa là đạo lý của thiền, cũng vừa là giúp cơ thể có chút khí lực bồi bổ cơ thể để tiến tu. Chánh pháp của Thế Tôn khác với ngoại đạo ở chỗ, ngoại đạo hay khoe khoang tu luyện cho thân thể khỏe mạnh vô bệnh nhưng sẽ gây thành ý niệm chắp thân. Còn chánh pháp của Thế Tôn cũng giúp có khí lực nhưng tuyệt nhiên không nói tới, để tránh chấp thân.

Này Rahula, có khí lực sung mãn, toàn thân tự nhiên có cảm giác rất rõ do khí lực thu hút cảm giác về với toàn thân. Nhờ luôn cảm giác toàn thân mà hành giả dễ có được Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Này Rahula, vì thế, ngoài những lúc ngồi thiền con nên biết an trú bên trong bụng dưới để nội lực từ từ tỏa ra”.

Sau khi giảng giải xong, tôn giả Nanda bắt đầu dạy Rahula vài cách chiến đấu hóa giải các thế tấn công bằng vũ khí dao kiếm, Rahula luyện tập rất hăng say.

Vào ngày nọ, Đức Phật và Chư Tăng đi ngang qua một vùng quê, nhà cửa hai bên thưa thớt và rất nghèo nàn. Khi mặt trời đã lên cao, Đức Phật bỗng dừng lại và đứng yên, Người cứ đứng yên mãi như thế.

Chợt có một phụ nữ đội giỏ rau đi ngang, chắp tay hỏi: “Thưa các Chư vị tôn giả sa môn, các vị đi đâu? Sao lại đứng yên giữa trời nắng thế này?”

Tôn giả Kimbila đáp: “Này nữ thí chủ, chúng tôi là các sa môn đến từ Savathi, đang đi về phía nam để đến Kosambi. Bây giờ là buổi sáng giữa đường, làng này dân cư ít ỏi và nghèo khó, chúng tôi chưa biết khất thực ra sao”.

Người phụ nữ suy nghĩ chút rồi chắp hai tay mời Đức Phật cùng Chư Tăng đến nhà mình thọ thực. Cô nói nhà cô ở gần đây, mặc dù rất nghèo nhưng cũng đủ cúng dường Tăng đoàn một bữa trưa.

Thế là người phụ nữ đi trước dẫn đường. Đức Phật cùng Tăng chúng đi theo sau. Về đến nhà, mẹ cô và cậu con trai bước ra chào Đức Phật và Chư Tăng. Rồi cả ba người tìm các tấm ghế tre, tấm chiếu, miếng lá để thỉnh Phật và Chư Tăng ngồi. Rồi họ tất tả nấu ăn với thức ăn sơ sài, dâng cúng dường Đức Phật và Chư Tăng. Sau khi thọ thực, Đức Phật bảo ba người đến nghe Đức Phật thuyết pháp.

Khi ba người đã ba người đã ngồi xuống. Đức Phật bảo: “Này các gia chủ Bhusido, các người có biết tại sao ngôi làng này nghèo khổ như vậy không? Trước kia, vùng đất này rất trù phú, dòng sông chảy rất gần bờ nên ghe thuyền tấp nập. Nhiều đường xe dẫn về đây nên xe ngựa vận chuyển hàng hóa đến đi thường xuyên. Người dân buôn bán nhiều sản vật quý giá nên ai cũng khá giả. Nhưng chỉ vì họ không biết đạo lý nên sống buông lung, hưởng thụ và ích kỷ. Khi phước của họ hết rồi thì dòng sông bồi đất và đổi dòng chảy ra xa mãi cách đây mấy do tuần.

Này các gia chủ Bhusido, họ ăn uống phung phí, ăn nửa bỏ nửa mà gọi là sang trọng. Họ bắt gia nhân gánh nước vào đầy bồn để tắm thỏa thích. Họ nhảy múa thâu đêm rồi không còn sức khỏe để phụng sự cho cộng đồng. Họ chê những đồng tiền nhỏ. Họ coi thường những ai lao động chân tay.

Khi ghe thuyền không còn cập bến thuận lợi, họ muốn làm đường nối tiếp ra bờ sông mới nhưng bờ sông cạn nên ghe thuyền phải cập bến xa bờ. Họ lại làm các cầu tàu dẫn ra chỗ nước sâu để có thể cho ghe thuyền cập vào cầu tàu, nhưng ghe thuyền nhiều mà cầu tàu ít, các ghe thuyền tranh nhau, đánh nhau, chết rất nhiều người.

Do đó, ai cũng sợ bỏ bến đò đi tìm chỗ bến an lành hơn. Thế là thị trấn vắng dần, cho đến khi trở thành đìu hiu như ngày hôm nay.

Này các gia chủ Bhusido, hôm nay các người đã dốc hết chút gạo còn lại để nấu bữa cơm cúng dường Như Lai và Chư Tăng, nên các người sẽ khiến cho làng mạc này trù phú trở lại…”

Thuyết pháp xong, Đức Phật và Chư Tăng ôm bát rời khỏi căn nhà nghèo đó. Đến một dòng sông rất rộng, Người đứng yên trên bờ nhìn dòng sông. Trời tối dần, mọi người cũng đứng yên theo vì hiểu Phật có ý gì đó.

Riêng tại nhà của cô Bhusido thì xảy ra điều rất kỳ lạ và bất ngờ. Vì đã vét hết gạo cúng dường cho Đức Phật và Chư Tăng nên cả ngày hôm đó cả nhà Bhusido đều nhịn đói. Mặc dù vậy, lòng của mẹ cô Bhusido rất vui khi thấy khuôn mặt của các vị sa môn đều tràn đầy vẻ nghiêm trang, đẹp đẽ và thánh thiện. Bà nói với cô Bhusido: “Mẹ nghĩ chúng ta đã cúng dường cho những vị Thánh giữa đời này rồi. Nhưng này Bhusido, cháu ngoại Canda còn nhỏ không chịu được cơn đói, nằm ngủ vùi mà không yên. Giờ này tối quá không mượn được ai miếng gạo nào để nấu cơm. Con hãy đi ra gốc cây vừng có sợi khoai rừng bò lên cây mò tìm lại gốc dây khoai đào củ lên nấu cho cháu ngoại Canda ăn tạm đi”.

Cô Bhusido cầm đuốc và cuốc đi ra sau vườn. Lát sau, cô bỗng kêu to lên, gọi mẹ của mình ra. Bà cụ đi ra đến chỗ gốc cây vừng và nhìn vào cái lỗ mà Bhusido đào lên thì thấy có một cái thùng gỗ hiện ra, bị cuốc lủng nắp, chứa đầy các đồng tiền vàng lấp lánh trong đêm.

Thế là bà cụ cùng cô Bhusido cùng quỳ xuống chắp tay nhìn lên trời rơi nước mắt nói: “Con tạ ơn trời cho con thoát kiếp nghèo này, nhưng con sẽ không dùng hết số vàng bạc này một mình, mà sẽ giúp cho nhiều người khác nữa”.

Và ngay lúc đó, một tia sáng chợt lóe lên trong đầu Bhusido, cô nói vui mừng với mẹ mình: “Mẹ có nhớ vị sa môn trưởng đã nói gì với chúng ta không? Ngài nói vì ta vét hết gạo nấu cơm cúng dường các vị nên ta sẽ là người đem lại sự trù phú cho vùng này trở lại, con nghĩ thật vi diệu”.

Nói về Đức Phật và Chư Tăng, khi mọi người đang ngồi thiền dưới các bóng cây ven bờ sông, thì có một người đàn ông lùa một đàn bò xuống bờ sông rồi thả rong trên bãi cỏ. Bất chợt, ông ngẩng lên nhìn thấy Đức Phật và Chư tăng đang ngồi thiền.

Ông vội vàng ngưng việc và chắp tay thưa: “Thưa các tôn giả sa môn, giờ này là giờ các vị sa môn đi khất thực. Các tôn giả lại ở nơi bờ sông vắng vẻ này thì có ai biết mà cúng dường vật thực. Nếu các tôn giả vui lòng thì xin hãy nán lại đây, con sẽ chạy về tìm vật thực cúng dường các tôn giả ạ”.

Nói rồi, ông tất tả chạy đi, lát sau ông trở lại cùng hơn mười người mang nhiều vật thực để cúng dường Đức Phật và các vị tôn giả.

Khi mọi người thọ thực xong, người chăn bò lấy nước cho Phật và Chư Tăng rửa tay. Sau đó, mọi người cùng ngồi xuống quanh Đức Phật để nghe Người thuyết pháp.

Đức Phật nói: “Này Rassa, các ông hãy ngồi lắng nghe và tác ý. Như Lai sẽ thuyết bài pháp trên sông cho các ông nghe.

Này Rassa, có người chăn bò vào cuối mùa mưa, dắt một đàn bò muốn băng qua sông. Người này nếu không khôn ngoan, cứ lùa đàn bò qua đại thì khi gặp khúc nước sâu sẽ khiến cả đàn bò bị cuốn trôi cả.

Này Rassa, nếu người chăn bò này khôn ngoan, tìm chỗ nước chảy chậm và rộng, có nghĩa là khúc nước nông, rồi lùa những con bò khỏe mạnh qua trước để thăm dò mực nước. Nếu lỡ gặp nước sâu thì những con bò khỏe mạnh vẫn có thể chống chọi để bơi vào bờ. Nếu chúng qua dễ dàng có nghĩa là khúc sông cạn dễ qua. Khi đó, người chăn bò sẽ lùa đợt thứ hai gồm những con bò vừa lớn.

Này Rassa, nếu đợt thứ hai này mà qua dễ dàng thì người chăn bò sẽ lùa tiếp những đợt tiếp đợt thứ ba gồm những con bò cái, bò già. Nếu chúng qua được thì người chăn bò sẽ lùa đợt cuối gồm những con bò tơ nhỏ bé.

Này Rassa, nhờ cẩn thận như vậy mà người chăn bò đã đưa hết đàn bò của mình qua sông. Cũng vậy, Như Lai hóa độ các đệ tử của mình cũng phân ra nhiều hạng đệ tử với các căn cơ khác nhau. Có những hạng đệ tử hùng mạnh, Như Lai cho vượt sông sớm. Tu tập những điều khó tu tập để sớm đắc quả A La Hán, giải thoát hoàn toàn khỏi tái sinh, đạt được sự giác ngộ bất tử.

Này Rassa, có những hạng đệ tử hùng mạnh, Như Lai cho vượt sông kế tiếp, tu tập những điều khó tu tập để sớm đắc quả A Na Hàm, diệt trừ được năm hạ phần kiết sử. Bỏ thân này sẽ sinh lên cõi trời Sắc Cứu Kính chứ không còn tái sinh lại cõi người nữa, bất lai. Hoàn toàn không còn tham sân, đạt một số thần thông biến hóa phi thường.

Này Rassa, có những hạng đệ tử hùng mạnh, Như Lai cho vượt sông kế tiếp, tu tập những điều khó tu tập, để sớm đắc quả Tư Đà Hàm, diệt trừ gần sạch tham và sân. Chỉ trở lại cõi người một lần nữa, nhất lai. Có trí tuệ sắc bén với mọi điều của cuộc sống.

Này Rassa, có những hạng đệ tử hùng mạnh, Như Lai cho vượt sông kế tiếp, tu tập những điều khó tu tập, để sớm đắc quả Tu Đà Hoàn. Diệt trừ ba kiết sử căn bản là Nghi – Thân Kiến – Giới Cấm Thủ, chắc chắn sẽ đắc quả A La Hán sau này. Không còn thoái đọa vào ác đạo, có tư cách bậc thầy mô phạm giữa đời.

Này Rassa, có những hạng đệ tử còn non yếu, Như Lai cho tu tập những điều vừa với khả năng, biết tin nhân quả nghiệp báo, biết giữ gìn giới luật căn bản. Biết cố gắng tránh điều ác làm điều lành. Biết tôn kính những bậc hiền, biết cảm hóa những kẻ xấu. Người như vậy khi mạng chung không sinh Thiên thì cũng tái sinh với dung sắc và thân phận vinh quang.

Này Rassa, như người chăn bò khéo léo biết giữ cho bò chỉ ăn cỏ hoang chứ không ăn phạm vào ruộng lúa. Cũng vậy, người tu tập là người khéo léo giữ gìn tâm hồn mình chỉ khởi tâm thiện lành, chứ không khởi các tâm bất thiện ô nhiễm.

Này Rassa, khi tâm hồn đã thuần thiện thì lời nói và việc làm sẽ trở nên tốt đẹp, với tam nghiệp tốt lành thì công đức dần dần thành tựu. Khi công đức đầy đủ thì người này có khả năng tiếp nhận những đạo lý cao siêu hơn, có thể hiểu Tứ Diệu Đế…

Thuyết pháp xong, Đức Phật và Chư Tăng ra đi. Dân làng quỳ lạy sát đất từ biệt. Và trong phút chốc, Đức Phật cùng Chư Tăng biến ở bờ sông bên này và hiện ra ở bờ sông bên kia. Chứng kiến sự việc, Rassa và dân làng kêu lên kinh ngạc rồi hướng theo lạy mãi.

Lúc này, Rahula mới chắp tay nói với tôn giả Nanda rằng: “Con vừa chớp mắt đã thấy mình ở bờ sông khác. Thần lực của Thế Tôn thật phi thường, mang cả đoàn người qua sông nhanh hơn gió”.

Tôn giả Nanda đáp: “Này Rahula sau này con sẽ hiểu nhiều nữa…”

TẬP 27: KỶ CƯƠNG ĐỆ NHẤT

Đức Phật và chư tăng đang trên đường về xứ Kosambi thì gặp một nhóm tỳ kheo tu ở gần xứ Anga (Ương già). Các vị này cảm thấy chưa đủ để tự sống tách khỏi tăng đoàn, nghe tin Thế Tôn đang du hoá gần này nên tìm đến để tháp tùng theo Thế Tôn và hỏi thưa những điều chưa tường tận. Sau cuộc hội ngộ, Đức Phật và chư tăng nhận cúng dường từ một đoàn thương buôn trên đường đi, sau đó cả đoàn thọ thực và ngồi thiền trong một khu nhà hoang.

Sau đó, tôn giả Upali bạch với Đức Phật rằng: Những vị có thiện căn sâu dày thì chỉ cần từ giáo pháp, liền có trí tuệ, biết điều gì nên làm và không nên làm. Tuy nhiên, có những vị có căn cơ mỏng nhạt, tuy khát khao tu hành, tuy nghe cùng một giáo pháp nhưng không đủ trí tuệ để biết việc gì nên làm, không nên làm, trong một cuộc sống đầy những điều phức tạp và tế nhị này. Chính vì vậy, tôn giả Upali mới đề xuất Thế Tôn cho phép các vị trưởng lão đã thành tựu giải thoát, đã chứng đạt tam minh sẽ soạn ra những luật nghi trình Thế Tôn duyệt xét. Nếu được Thế Tôn duyệt xét tì sẽ dùng chỉ bảo về cách cư xử, nói năng, đi đứng để các tỳ kheo non trẻ biết mà thực hành, mà không bị lúng túng trong việc cư xử với đại chúng.

Đức Phật đồng ý, tôn giả kêu gọi đầy đủ tăng đoàn lại ngồi xung quanh Phật. Tôn giả Upali bạch rằng, có lần tôn giả thấy một vị tỳ kheo mới xuất gia, đi khất thực buổi sáng, gặp một bạn xưa, nên kéo nhau ra gốc cây, nói chuyện, cười cợt rất lâu, đến khi bị nhắc nhở mới vào tăng đoàn mà đi tiếp. Tôn giả bạch rằng: Một vì tỳ kheo khi đi khất thực tức là đi giữa cuộc đời, trong sự dòm ngó của mọi người, vì thế phải biết giữ chánh niệm, tỉnh giác, thanh tịnh nội tâm mà bước đi. Dù tâm chưa được chánh niệm, nhưng phải giữ được uy nghi, đĩnh đạc. Và cũng chính vì giữ được hình dáng đàng hoàng mà tâm không buông lung.

Chợt, tôn giả Kimbila có chút lưu ý: Sẽ có hai tâm lý khi một vị tỳ kheo trẻ cố gắng giữ hình dáng của mình. Một là cố gắng giữ uy nghi để giữ gìn danh tiếng cho tăng đoàn cũng là thúc liễm nội tâm. Hai là tâm lý diễn kịch, làm ra vẻ đàng hoàng để được mọi người kính nể.

Tôn giả Upali cảm ơn tôn giả Kimbila đã nói ra một điều tinh tế và quan trọng như thế, tôn giả Upali khẳng định tiếp: Đạo lý sẽ cho một tỳ kheo biết tác ý đúng. Luật nghi sẽ cho vị tỳ kheo ấy uy nghi cử chỉ đúng.

Về việc khất thực, tôn giả đề xuất: Các tỳ kheo nên cố gắng đi cùng một nhóm với nhau, ít nhất là 2 người, hơn là một mình. Để tránh cho tỳ kheo ấy buông lung, hai là có thể bảo vệ nhau khi gặp nguy hiểm. Riêng tỳ kheo ni, phải đi nhóm từ bốn người trở lên.

Ngoài ra, trước khi đi khất thực, nhóm tỳ kheo ấy phải xem khu làng mình muốn đi có đủ sức cúng dường vật thực cho số người của mình không, vì có khi cả đoàn từ tinh xá đổ ra cả 500 người sẽ là gánh nặng cho gia chủ. Đánh giá vậy rồi, các tỳ kheo chia nhau đi các hướng để không dồn áp lực cúng dường lên một làng nào cả.

Tôn giả Anuruddha lên tiếng: Thưa tôn giả Upali, khi nào thì một tỳ kheo có thể nhận đệ tử xuất gia riêng của mình? Càng lúc Thế Tôn càng có nhiều đệ tử và những đệ tử tỳ kheo trưởng lão lại có nhân duyên tiếp độ của mình nên ta phải đặt ra điều luật này cho thống nhất trước sau. Con thiết nghĩ nếu vị tỳ kheo trưởng lão đó cảm thấy mình đã chín chắn trong giáo pháp.

Tôn giả Upali đáp: Bạch Thế Tôn, thưa tôn giả Anuruddha, lại có nhân duyên gặp người xin làm đệ tử xuất gia thì vị tỳ kheo ấy phải trình lên Thế Tôn. Nếu không ở gần Thế Tôn thì phải xin phép vị thượng thủ tăng đoàn nơi đó. Sau khi thế phát cho người đệ tử rồi cũng không nên giữ riêng người đệ tử ấy cho mình, mà phải dạy cho người đệ tử đó phải tôn kính Thế Tôn tuyệt đối, bởi vì Thế Tôn là bậc khai đạo sư. Sau đó, phải dạy cho đệ tử mình tôn kính tất cả hàng trưởng lão như Thầy mình không khác. Như vậy, dù các vị có nhận đệ tử thì tăng đoàn cũng không bị phân hoá.

Tôn giả Nandiya lên tiếng: Thưa tôn giả Upali, có những tỳ kheo được phước quá khứ nên nhận được nhiều sự ưu ái, cúng dường tứ sự vật dụng như y áo, vải vóc, chăn chiếu, khăn túi… Có những tỳ kheo ít phước nên ít được cúng dường hơn. Vậy tôn giả có ý kiến gì về việc này chăng?

Tôn giả Upali đáp: Sư chênh lệch phước ở quá khứ là điều không thể tránh khỏi, vì thế cũng không tránh khỏi sự cúng dường chênh lệch. Ta phải tôn trọng sự vận hành của nghiệp báo như thế. Tuy nhiên, ta nên yêu cầu các vị tỳ kheo có phước đó trình báo vật dụng được cúng dường, để các vị thượng thủ xem xét cho chia ra các vị khác hay không. Ta tôn trọng nhưng cũng phải biết điều chỉnh và giáo dục.

Tôn giả Ananda lên tiếng: Khi một vị tỳ kheo đi khất thực, nhưng có một nữ nhân đi theo. Dù vị tỳ kheo ấy chẳng bận tâm gì với nữ nhân đó. Nhưng người khác nhìn vào rất động lòng, khó coi, không yên lòng.

Tôn giả Upali trả lời: Trong trường hợp này, vị tỳ kheo nên đứng lại cho nữ nhân đó đi qua luôn hoặc rẽ sang hướng khác. Nếu vị nữ nhân đó muốn nói điều gì thì lắng nghe giải đáp, rồi yêu cầu vị nữ nhân ấy không đi sau lưng bất kỳ vị tỳ kheo nào nữa.

Tôn giả Kimbila lại nói: Trường hợp vị tỳ kheo hằng ngày ôm bát đi khất thực nhưng thật ra lại đến duy nhất một nhà vị gia chủ thân quen dùng bữa rồi quay lại tinh xá.

Tôn giả Upali dạy rằng: Vì vị gia chủ kia có nợ gì đó với vị tỳ kheo đó đời trước nên rất ân cần buổi đầu. Nếu vị tỳ kheo ấy không lượng sức, cứ thọ dụng mãi thì đến một ngày món nợ xưa sẽ hết. Khi nợ đã hết thì vị gia chủ bắt đầu khó chịu, thế nào cũng nói những câu khó nghe, xúc phạm, vô tình mất duyên với Tăng. Vì thế, vị tỳ kheo xuất gia đã bỏ gia đình riêng rồi thì đừng luyến ái với gia đình nào nữa. Nếu họ có nợ thì càng phải khuyên bảo đạo lý tu hành, chứ đừng thọ hưởng nhiều rồi hết nợ cũng là hết duyên.

Tôn giả Nanda bạch: Có lần, tôi trông thấy một tỳ kheo chứng được Tam thiền có chút thần thông, vị đó đến bờ sông nhằm lúc chiếc bè sắp rời bến qua sông, nhưng vị đó không xin lên bè mà dẫm lên nước mà đi. Mọi người kêu lên thám phục, nhưng tôi không hoan hỉ việc này.

Tôn giả Upali trả lời: người chứng được Tam thiền chưa chắc đã chứng được quả thánh nào, có thể hết phước rồi thoái lui không chứng. Nếu ỷ mình có thần thông rồi hiển lộ bừa bãi để mong cầu sự thán phục của mọi người thì thật là tai họa. Bản ngã vị đó sẽ tăng trưởng, phiền não sẽ dấy khởi rồi sẽ tạo nghiệp bất thiện cản đường tu hành. Vì thế, tỳ kheo có thần thông cũng không nên hiển lộ, chỉ trừ các vị đã chứng A La Hán đạt được vô ngã hoàn toàn, sẽ tự biết khi nào dùng thần thông thích hợp.

Tôn giả Andaiya nói: Thưa tôn giả Upali, tôi trông thấy các đạo sĩ Bà La Môn khi tụ họp để làm lễ, hoặc ăn uống. Họ đều lúng túng vì không biết nên ngồi thế nào cho phải phép. Ai sẽ ngồi trên, ai sẽ ngồi dưới. Tôi thấy các vị Tỳ Kheo của ta đôi lúc cũng lúng túng vì ai cũng muốn nhường nhau. Ở đây tôn giả Upali có ý kiến gì không?

Tôn giả Upali đáp: “Bạch Thế Tôn, thưa tôn giả Nandiya. Khái niệm trên dưới thật là tạm bợ tương đối. Tuy nhiên, ta cũng phải đành chấp nhận có trên có dưới để mọi người dựa vào đó mà đứng ngồi cho khỏi lúng túng nữa. Các Bà La Môn thường dựa vào tuổi tác để phân cao thấp trên dưới. Tuy nhiên, có Bà La Môn gia thế cao quý, có Bà La Môn gia thế tầm thường. Thế là nhiều khi dù nhỏ tuổi, vị Bà La Môn sang quý vẫn chiếm được chỗ trên hội chúng. Còn trong Tăng đoàn Tỳ Kheo, con thiết nghĩ quả chứng là sự phân biệt rõ nhất.

Vị chứng được quả A La Hán phải được tôn trong nhất, hơn những vị A Na Hàm, Tư Đà Hàm, Tu Đà Hoàn. Nhưng cùng một quả thánh, thì nên xem ai xuất gia tuổi đạo lớn thì ở trên là hợp lẽ. Riêng hai vị Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là thượng thủ thống lĩnh tăng đoàn thì dĩ nhiên phải ở vị trí cao nhất. Sau này, khi Thế Tôn nhập Niết Bàn, chẳng còn ai để xác nhận quả chứng thánh của các Tỳ Kheo nữa, thôi thì hãy chọn tuổi đạo lớn là ở trên. Tuy nhiên, tuổi đạo nhiều không phải là đạo hạnh cất o hơn. Có những vị Tỳ Kheo xuất gia sau nhưng đạo hạnh vượt trội thì đại chúng và vị Bổn Sư phải cất nhắc đưa lên trên cho hợp lẽ.

Tôn giả Anuruddha nói: Thưa tôn giả Upali, có những khi các vị Tỳ Kheo đi khất thực xong rồi tìm các gốc cây mà ngồi ăn riêng rẽ, nhưng cũng có khi các Tỳ Kheo ngồi ăn chung một chỗ do gia chủ thỉnh về nhà cúng dường. Khi ngồi chung như thế, có vị khởi lên trong tâm thắc mắc về đạo lý tu hành, vừa muốn ăn vừa muốn hỏi huynh đệ, việc đó có nên chăng? Chưa kể khi có khi văng thức ăn ra ngoài thì thật là khiếm nhã.

Tôn giả Upali trả lời: Bạch Thế Tôn, bạch tôn giả Nandiya. Khi thức ăn còn trong miệng, mà nói thì hình tướng không hay, hoặc đợi nuốt xong rồi nói thì lại làm phiền người khác đang còn nhai thức ăn, rất là khó chịu. Hơn nữa, nếu trong khi ăn mà nói chuyện thì cả hội chúng sẽ rất ồn náo. Tiếng ồn đó tâm vị Tỳ Kheo loạn lên không tốt cho việc tiêu hóa. Một bậc có thúc liễm sẽ nhai nuốt trong chánh niệm, biết rõ từng miếng cơm đưa vào, nhai nuốt rõ ràng và không chấp nhận sự ồn náo loạn động.

Tôn giả Kimbali lại nói: Thưa tôn giả Upali, khi đi khất thực, ta không thể đòi hỏi thí chủ cúng dường vật thực theo ý mình, nghĩa là thí chủ cúng gì thì ta ăn nấy. Vì thế, Tỳ kheo đành phải ăn cả thức ăn huyết nhục, nhiều người đã thắc mắc tại sao Chánh Pháp của Thế Tôn dạy từ bi không sát hại chúng sinh là Tỳ kheo lại ăn thức ăn huyết nhục. Vậy phải chăng Thế Tôn dạy một đường mà đệ tử lại làm theo một ngã?

Tôn giả Upali trả lời: Bạch Thế Tôn, bạch tôn giả Kimbali, quả thật ta đang tồn tại một nghịch lý là giáo pháp của Thế Tôn không cho phép sát sinh, chỉ vì ta đi bất ngờ nên thí chủ có gì cúng nấy, kể cả thức ăn huyết nhục. Nhưng con nhận thấy có nhiều gia chủ đoán trước sẽ có chư Tăng đi ngang khất thực hằng ngày, nên đã chuẩn bị vật thực ngon lành, cứng và mềm, đủ các vị khả ý, chay tịnh, không có đồ huyết nhục để dâng cúng cho chư Tăng. Đây là ý thức đáng khen của các cư sĩ hiểu đạo. Con thiết nghĩ, càng về sau khi Chánh Pháp đã lan tràn rộng rãi, nhiều cư sĩ hiểu đạo sẽ không ai cúng dường thức ăn huyết nhục cho chư Tăng nữa. Lúc đó, các Tỳ kheo sẽ được ăn thức ăn chay tịnh hoàn toàn.

Tôn giả Nandiya lên tiếng: Thưa tôn giả Upali, có nhiều cư sĩ nữ không thích đến tinh xá của Ni Giới mà lại cứ thích qua chỗ của chư Tăng, có lẽ cũng bởi vì Thế Tôn ở bên chư Tăng. Nhưng việc mà nhiều cư sĩ nữ mà đến bên Tăng nhiều quá hoặc cư sĩ nam thích đến bên chỗ Ni nhiều, có thể gây sự đàm tiếu vô ích, thậm chí cũng gây động tâm cho những Tăng Ni chưa giải thoát.

Tôn giả Upali đáp: Bạch Thế Tôn, bạch tôn giả Nandiya, có một quy luật tự nhiên mà ta không cưỡng lại được, đó là tăng đoàn của Tăng luôn có sức thu hút cư sĩ nhiều hơn đoàn thể của Ni. Nếu ta ngăn cấm thì thì có khi họ bực tức bỏ tinh xá không đến nữa, điều đó không có lợi cho việc hóa độ chúng sinh của Thế Tôn. Vì thế, ta khéo gợi ý hướng dẫn cư sĩ nữ về bên Ni, cư sĩ nam về bên Tăng. Chú không đưa ra luật lệ nghiêm ngặt được. Phần của các Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni thì phải biết thúc liễm tu hành, tránh duyên gần gũi thân mật với các cư sĩ khác giới tính.

Tôn giả Nandiya nói tiếp: Thưa tôn giả Upali, có những loại người huỳnh môn, mang hình tướng nam nhưng tâm là nữ. Hoặc ngược lại, mang hình tướng nữ nhưng tâm hồn của người nam. Những người như vậy, khi xuất gia vào Tăng đoàn, bên ngoài thì thấy họ bình thường, nhưng bên trong lại là môi trường thuận lợi cho ái dục phát triển, rất nguy hiểm và phiền toái cho Tăng chúng.

Tôn giả Upali đáp: Bạch Thế Tôn, bạch tôn giả Nandiya, có những người huỳnh môn như vậy rất khó cho việc sắp xếp cộng trú với Tăng chúng. Hơn nữa, tâm của những người huỳnh môn thường loạn động phiền não hơn người bình thường, họ rất hay mơ tưởng về ái dục rất mạnh, khó lòng hướng theo Chánh Pháp. Con thiết nghĩ, Tăng đoàn không nên cho người huỳnh môn xuất gia vào Tăng đoàn, cho đến khi họ ở tại gia sám hối tu tập cho trở thành người bình thường trước đã.

Tôn giả Anuruddha lên tiếng: Thưa tôn giả Upali, từ trước đến nay hầu hết những người xuất gia đều là người lục căn đầy đủ. Nhưng nếu sau này có những người lục căn bất cụ, khiếm khuyết một phần thân thể, muốn xuất gia thì có cho phép chăng?

Tôn giả Upali trả lời: Bạch Thế Tôn, bạch tôn giả Anuruddha người xuất gia là Tỳ Kheo không phải là để xin ăn sống qua ngày, mà phải có chí nguyện tu hành giải thoát giáo hóa độ chúng sinh. Người lục căn bất cụ bị nhược điểm là khiến cho chúng sinh cứ nghĩ người đó thua kém họ. Để cho họ kiếp này tu tập làm phúc, được tái sinh với thân thể hoàn hảo rồi hãy xuất gia làm thầy thiên hạ ở kiếp khác.

Tôn giả Nanda nói: Thưa tôn giả Upali, tôi thấy có nhiều người chưa hiểu về Bát Kỉnh Pháp mà Thế Tôn chế ra buộc các Tỳ Kheo Ni phải tuân thủ. Tôi thỉnh tôn giả giải thích cho đại chúng hiểu thêm về ý nghĩa của Bát Kỉnh Pháp.

Tôn giả Upali đáp: Bạch Thế Tôn, thưa tôn giả Nanda, Thế Tôn chế ra Bát Kỉnh Pháp dành cho Ni, và cũng là luật tắc đầu tiên, chứ từ trước Thế Tôn chưa bao giờ chế ra luật lệ gì cả, chỉ giảng giải giáo pháp cho mọi người hiểu và tự giữ mình cho đúng. Bát Kỉnh Pháp bao gồm tám điều bắt buộc:

*Tỳ Kheo Ni phải tôn trọng Tỳ Kheo Tăng, phải ở trong sự bảo vệ của Tỳ Kheo Tăng. Họ làm đệ tử của mẹ Thế Tôn cũng tức là ngang hàng vai vế với Thế Tôn. Ý nghĩ cao vọng này sẽ khiến họ mất sạch công đức và thoái đọa luôn. Khi chấp nhận tám phép này thì họ trừ được tâm cao vọng đó.

*Tác dụng thứ hai của tám phép này là giữ khoảng cách giữa Tăng và Ni bởi sự cung kính và lễ nghĩa như thế.

*Tác dụng thứ ba là cũng buộc Tăng chúng phải có trách nhiệm bảo vệ Ni chúng vốn tay yếu chân mềm rất dễ bị tổn thương bởi những kẻ vô lại đầy khắp cõi trời đất này.

Tuy nhiên, tác dụng phụ của tám phép này là khiến cho các tỳ kheo Tăng chưa có trí tuệ bị phát sinh kiêu mạng, vì chưa có chứng được gì mà cứ tưởng mình là cao quý hơn Ni giới. Vì vậy, các tỳ kheo Tăng phải biết tôn trọng Ni dù cho bên Ni phải tuân giữ Bát Kỉnh Pháp.

Bên Ni còn có nhiều vị đã chứng A La Hán phi thường, riêng Đức Bà Yashodara thì là vị A La Hán Ni siêu việt, trí tuệ và lòng từ bi phủ trùm khắp cả pháp giới. Đức Bà Yashodara tuy ở tại Kỳ Viên mà lắng nghe hết mọi chúng sinh. Đức Bà bí mật ứng thân ra nhiều nơi để cứu giúp các cảnh đời đau khổ mà không ai hay. Nhiều chúng sinh gặp nguy khốn kêu la đã được Đức Bà ứng thân cứu giúp mà họ cứ tưởng là có nữ thần Kashi nào đó cứu giúp.

Trong tinh xá, các vị tỳ kheo xây cất thêm nhà ở. Các Tỳ Kheo ngồi quay quần bên tôn giả Upali, hỏi: Thưa tôn giả Upali, Thế Tôn dạy chúng con không được chặt phá cây cối vì là chỗ ở của quỷ thần, phá cây cối là làm tổn hại chúng sinh, chúng con rất tuân thủ điều luật này. Nhưng thưa tôn giả Upali, thế khi trưởng giả Ghosita thuê thợ lên rừng đốn cây về làm nhà trong tinh xá cho chư Tăng ở thì như thế nào ạ?

Tôn giả Upali đáp: Này các hiền giả tỳ kheo ở Kosambi. Chúng ta là Tỳ Kheo Sa Môn tu hành cầu giải thoát, nên cẩn thận từng chút tránh gây oan trái với chúng sinh, vì gây oan trái với chúng sinh rồi thì thế nào cũng phải tái sinh để trả nợ. Khi một tỳ kheo muốn hạ một cây làm nhà thì phải đứng trước cây đó mà khấn xin, nếu có giấc mộng lành hoặc không thấy gì cả thì được hạ cây, nếu có giấc mộng dữ thì tức là quỷ thần dạ xoa ở cây đó không chịu nhường cây, thì Tỳ Kheo phải đi tìm cây khác.

Này các Tỳ Kheo ở Kosambi, người thế tục vì mưu sinh mà gây ra không biết bao nhiêu nghiệp chướng. Nếu họ biết làm phước thì nghiệp xấu được cấn trừ bớt, nếu họ ngu si hưởng thụ thì bao nhiêu nghiệp xấu phải có lúc đền trả rất cực khổ. Những cây gỗ này do các tiều phu hạ đem về rao bán, ai cần thì cứ mua. Trưởng giả Ghosita mua cây này để cất nhà thì thôi, cây cũng đã hạ rồi. Nếu các quỷ thần đổi tâm hoan hỷ thì họ sẽ có duyên với chánh pháp, theo cây về đây để quanh quẩn tu học với chư Tăng cũng tốt.

Một vị Tỳ Kheo khác lên tiếng: có lần chúng con nghe Thế Tôn nói trong một bát nước cố rất nhiều con vật bé xíu, nên khi uống nước phải lọc bớt. Chúng con vẫn chưa hiểu việc này lắm. Mong tôn giả giải thích thêm cho chúng con.

Tôn giả Upali trả lời: này các hiền giả Tỳ Kheo, nhãn lực của Thế Tôn là phi thường, có thể nhìn thấy khắp cả pháp giới vũ trụ này, và cũng có thể nhìn thấy những vật thể cực nhỏ. Thế Tôn đã nhìn thấy có rất nhiều con vật bé xíu sống ở khắp nơi. Ngay cả trong bát nước mà ta uống tưởng như trong lành.

Những con vật đó khi lọt vào bụng của ta rồi có khi không có chuyện gì, có khi cũng gây bệnh. Có rất nhiều loài vật bé xíu đó khác nhau, hình thù khác nhau, độc tính khác nhau. Vì thế, tốt nhất ta nên lọc lấy nước bằng vải dày trước khi uống. Thật ra, có nhiều con vật nhỏ đến nỗi có thể chui lọt qua kẻ vải để tiếp tục trú trong bát nước vừa lọc. Lọc như vậy chỉ hạn chế chứ không gạn hết được mấy con vật nhiều vô kể đó.

Tuy nhiên, cơ thể ta sẽ tự động hủy diệt nếu cần. Này các hiền giả, vì thế lúc nào ta cũng phải giữ cái đãy lọc nước theo bên mình.

Một vị Tỳ Kheo khác hỏi: Thưa tôn giả Upali, có nhiều khi gặp các cư sĩ cúng dường rượu men, vậy chúng con có nên uống không ạ?

Tôn giả Upali trả lời: Này các hiền giả, rượu làm say sưa, dáng người ngả nghiêng không còn uy nghi của bậc thánh, lại làm mất trí tuệ nên nói năng bừa bãi loạn xạ, thua cả người thế tục bình thường, lại kích động phiền não, sân si, hơn thua, dễ làm bậy bạ, gây nghiệp ác. Vì thế, các Tỳ kheo tu hành giải thoát tuyệt nhiên đừng uống rượu men như thế.

Một vị Tỳ Kheo khác hỏi: Thưa tôn giả Upali, có tỳ kheo Vassa kia sau khi xuất gia, cứ mỗi lần khất thực đều ghé thăm vợ con, hỏi han mọi thứ rồi mới đi tiếp. Chúng con cảm thấy kỳ kỳ mà không hiểu sai chỗ nào.

Tôn giả Upali trả lời: Này các Tỳ Kheo. Phàm đã là người xuất gia thì không nên giữ tình cảm gia đình riêng tư như thế. Tình cảm với gia đình riêng, trách nhiệm riêng, làm nặng tâm hồn người muốn tìm đường giải thoát, vì tình thương trách nhiệm đó do tự nguyện chứ không phải do sự ràng buộc tự nhiên của gia đình. Thà rằng ta yêu thương khắp tất cả chúng sinh, vậy mà không sao. Hãy nói với vị tỳ kheo Vassa đừng quyến luyến gia đình hoài như thế, và tốt hơn hết là Tỳ Kheo Vassa nên xin về tinh xá Trúc Lâm ở vương thành Vương Xá sẽ tránh được việc qua lại gặp gia đình. Hơn nữa, tinh xá Trúc Lâm đầy những vị thánh tăng A La Hán, nên các tỳ kheo mới sẽ được các vị A La Hán dạy dỗ kỹ hơn.

Một vị Tỳ Kheo khác lên tiếng: Thưa tôn giả Upali, theo chúng con được biết ở xứ Kosambi này có sản sinh ra tôn giả Tân Đầu Lư Phả La Đọa chứng A La Hán với thần lực phi thường. Tiếc rằng, tôn giả lại về ở tinh xá Trúc Lâm. Nên cả một thời gian dài, ở xứ Kosambi không có một vị Thánh Tăng nào làm mô phạm cho hàng Tỳ Kheo non trẻ như chúng con, khiến cho chúng con đã phạm nhiều sai lầm mà không biết.

Tôn giả Upali đáp: này các hiền giả Tỳ Kheo, đối với các bậc Thánh thông tuệ, thì chỉ cần nghe giáo pháp là các vị biết điều gì nên làm, điều gì không nên làm. Nhưng đối với các vị Tỳ Kheo còn non kém thì phải nương vào luật nghi, để biết điều gì nên làm điều gì không nên làm. Nên Thế Tôn đã ủy thác cho tôi trách nhiệm lập ra luật nghi để giúp các vị Tân Tỳ Kheo biết giữ cử chỉ uy nghi đời sống cho học với giáo pháp. Tôi còn ở đây ngày nào sẽ giảng về luật nghi cho các vị hiền giả nghe. Các hiền giả hãy cố gắng đọc tụng ghi nhớ giỏ luật nghi này để truyền dạy cho muôn đời sau.

Trong cung điện vua Udena, các thám tử báo cáo về một vị Sa Môn rất nổi tiếng đến từ Savathi, nhưng có nguồn gốc từ Ca Tỳ La Vệ, là thái tử của dòng họ Gotama. Nghe nói vị này đã chứng Thánh đạo quả cao siêu giác ngộ, đệ tử rất đông. Đại vương Udena và các công tử Pindola Bharadvaja đã quy y Sa Môn.

Trong cung điện vua, có cả một bức tượng tạc hình dáng Đức Phật. Đức vua bàn bạc với hoàng hậu Samavati về việc gặp và đảnh lễ Đức Phật và nhờ hoàng hậu thông báo cho các vị ái phi khác xem bức tượng tạc Đức Phật trước khi đảnh lễ Ngài.

Tuy nhiên, trong số các vị phi tử của vua, vị ái phi Magadiya sau khi nhìn thấy bức tượng đã vội vã bỏ chạy ra ngoài. Đức vua đuổi theo và gặng hỏi nguyên cớ. Vị ái phi Magadiya đã nói với Đức vua rằng nàng hận Đức Phật 3 năm qua. Sau khi nghe câu chuyện của vị phi tử Magadiya, Đức Vua tỏ ra trầm ngâm và sau khi trở về thư phòng và quyết định dời buổi gặp mặt với Đức Phật.

Trong nội cung của hoàng phi Magadiya, bà ta đã mua chuộc một vị thám tử bằng một chức quan để làm một việc xấu xa để hãm hại Đức Phật (..)

Trong khi đó, tại tịnh xá Kỳ Viên xảy ra sự vụ một Tỳ Kheo Ni có thai và đã làm dậy tiếng cả Ca Tỳ La Vệ. Thì ra Tỳ Kheo Ni đã mang thai trước khi xuất gia và không hề biết sự việc mình đã mang thai. Tôn giả Xá Lợi Phất đã phái một Tỳ Kheo đến và nhờ Thế Tôn phân xử hợp lý. Thế tôn đã phái Tôn giả Upali trở về Ca Tỳ La Vệ để giải quyết sự vụ, cùng đi có sa di La Hầu La, tôn giả Nanda và một số vị tỳ kheo khác.

Đêm đến, cả đoàn người nghỉ ngơi trong một khu nhà hoang. Nửa đêm, sa di La Hầu La ra hiệu triệu tập các thám tử. Các thám tử cho hay, hiện nay một số ngoại đạo đã cho người xuất gia giả làm tỳ kheo để gia nhập Tăng đoàn nhằm phá hoại bên trong, gây xáo trộn nội bộ và làm mất uy tín của Thế Tôn. Sau khi bàn bạc với các thám tử, sa di La Hầu La trở lại nơi nghỉ của Tăng đoàn. Sáng hôm qua, Tăng đoàn tiếp tục lên đường.

Sa di La Hầu La hỏi tôn giả Nanda: thưa tôn giả Nanda, con thấy Tôn giả Devadatta lạ lạ sao ấy. Tôn giả rất tinh tấn, có khi tọa thiền cả đêm, suốt ngày thầm lặng không nói ai câu nào. Nhưng tại sao không được Thế Tôn xem là một A La Hán như các tôn giả khác ạ?

Tôn giả Nanda trả lời: này La Hầu La, chứng được thiền nhưng không chứng được quả Thánh, hai cái chứng khác nhau xa lắm, dù nghe có vẻ giống nhau.

Tăng đoàn cuối cùng cũng trở về tinh xá Kỳ Viên.

Ban đêm, một vị tỳ kheo lặng lẽ lẻn ra ngoài, tung mình nhảy ra khỏi bờ rào. Có vài người bịt mặt đang ở sẵn đây. Thì ra vị Tỳ Kheo Pahuta là người ngoại đạo được cài vào để phá hoại Tăng đoàn từ bên trong. Vài người có sẵn ở đấy để đợi Pahuta để chuyển lời của các trưởng lão. Tuy nhiên, Pahuta đã một lòng thành tâm hướng về Đức Phật. Chưa dứt lời, thì những kẻ bịt mặt đồng loạt rút gươm đâm vào Pahuta. Tuy nhiên, Pahuta không thể chống chọi được với ba kẻ hung tợn và gục xuống dưới vũng máu và nằm im bất động.

Buổi sáng hôm sau, tôn giả Xá Lợi Phất lặng lẽ đi cùng vài tôn giả khác đến chỗ xác của Pahuta, chấp tay chú nguyện, rồi tôn giả đưa bàn tay. Bỗng nhiên, ngọn lửa bốc lên, thiêu cháy xác của Pahuta. Cuối cùng, một cơn gió bay đến, cuốn hết xương tro bay mất. Các tôn giả lặng lẽ quay về tinh xá.

Trở lại chuyện một Tỳ Kheo Ni có thai, tôn giả Xá Lợi Phất cho người mời hoàng hậu Mallika đến buổi phân sử vì cả vua và hoàng hâu cũng đang quan tâm sự việc. Buổi phân sử diễn ra có hai bên Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni, có hoàng hậu Mallika. Tỳ Kheo Ni Sohati bước ra cúi chào hoàng hậu và đảnh lễ chư tôn giả Tỳ Kheo Tăng và quay trở lại chỗ ngồi của mình. Buổi phân xử diễn ra dưới sự làm việc của tôn giả Upali.

Sự việc xảy ra cách đây ba tháng khi cô thuyết phục được chồng cô cho cô xuất gia. Nhưng không ngờ, khi rời gia đình về đây xuất gia, cô đã cấn thai vài ngày.

Tôn giả Upali hỏi về tâm nguyện của cô Sohati như thế nào và phân xử: cô Sohati vẫn được ở trong Ni đoàn bình thường, nhưng sẽ được dời về tinh xá Trúc Lâm dưới sự quản lý của Đức Bà Da Du Đà La và được sinh nở tại đấy và đứa bé khi sinh ra sẽ được xuất gia luôn. Mọi người đều hoan hỷ với quyết định của tôn giả Upali. Hoàng hậu Mallika rất đỗi vui mừng và cho hay sẽ thông báo cho khắp Ca Tỳ La Vệ biết tin.

Trong nội cung của hoàng phi Magandiya.

Các thám tử về báo tin về Đức Phật tại Kosambi hằng ngày. Bà không thể tự ý đuổi hoặc giết hại một vị Sa Môn đạo sĩ nào vì đây là truyền thống của Kosambi và các nước xung quanh và sẽ khiến cho vua Udena sẽ vào cuộc điều tra.

Suy nghĩ một lúc lâu, hoàng phi Magandiya đã ra lệnh cho thám tử đem vàng bạc thuê nhiều người người dưới quê lên để chửi bới sa môn Gotama mỗi ngày trên đường đi khất thực. Làm như thế, có thể sẽ làm cho sa môn Gotama tự ái, cho rằng người dân ở đây không ưa mình và bỏ Kosambi mà đi.

Hoàng hậu cho người lẻN lấy pho tượng tạc hình dáng của Đức Phật trong thư phòng của vua Udena để tạc lại một pho tượng như đúc, mang về vùng quê để nhiều người được thuê có thể nhận biết được hình dáng của Đức Phật.

Một hôm, trong kinh thành Kosambi có nhiều người từ dưới quê kéo lên. Đức Phật cùng Tăng đoàn vẫn vào kinh thành khất thực. Chợt thấy Đức Phật và tôn giả Ananda, một người đã chỉ cho những người dưới quê và sai họ chửi đi. Nhìn thấy dáng vẻ của Đức Phật mọi người tấm tắc khen ngợi, tên thám tử quát nạt và các dân quê bắt đầu chạy ùa đến chặn đường không cho Đức Phật đi, họ tuôn ra vô số câu chửi thậm tệ. Đức Phật bình thản đứng yên trong vòng vây. Các dân quê kéo đến càng ngày càng đông, tiếng chửi vang cả góc kinh thành. Đức Phật và tôn giả Anada kẹt trong vòng vây của các dân quê. Sau một đỗi, các dân quê chửi đến mệt rồi ngồi la liệt bên đường. Tranh thủ lúc đó, tôn giả Anada kéo tay Đức Phật đi nhanh ra khỏi chỗ đó và về đến tinh xá.

Về đến nơi, các Tỳ Kheo đã biết chuyện. mọi người nhìn Đức Phật ái ngại. Buổi chiều, cả tinh xá yên lặng, chẳng ai muốn nói với ai câu gì, mỗi người một góc. Tôn giả Anada rón rén đến bên Đức Phật quỳ xuống trong nước mắt và nói: Bạch Thế Tôn, dân ở đây không thích, thôi thì chúng ta rời khỏi đây đi ạ.

Thế Tôn trả lời: Này Anada, nếu chỗ mới ta đến, họ lại chửi mắng ta nữa thì ta sẽ đi đâu?

“Bạch Thế Tôn, thì chúng ta lại bỏ đi nơi khác nữa ạ.”

Thế Tôn trả lời: “Này Anada, đi đâu để tránh sự hủy báng nhục mạ cho được, hãy can đảm đi thẳng vào nơi đầy sự hủy báng nhục mạ, hãy đối diện nơi có đầy sự hủy báng nhục mạ, hãy đón nhận lấy tất cả sự hủy báng nhục mạ, thì cuối cùng sự hủy báng nhục mạ ấy cũng chẳng tồn tại được lâu”.

Các Tỳ Kheo trầm mặc đứng ngoài nghe Đức Phật nói.

Tại tinh xá Trúc Lâm, hai thám tử phi ngựa như bay chạy xộc vào tinh xá Trúc Lâm để báo tin cho La Hầu La. Sa di La Hầu La hỏi về động tĩnh của vua Udena và ra lệnh cho các thám tử lặng lẽ rời khỏi tinh xá và đợi ngài ở bên ngoài. Các thám tử nhanh chóng lặng lẽ rời khỏi tinh xá. La Hầu La ôm bình bát chạy nhanh ra ngoài, nhắn với một vị Tỳ Kheo gác cổng thưa lại giúp rằng ngài cần quay về Kosambi gấp…


TẬP 28: IM LẶNG SẤM SÉT

Rahula cùng với hai thám tử chạy như bay về Kosambi. Tới Tinh xá Ghosita, vừa nhìn thấy Tôn giả Devadatta (Đề Bà Đạt Đa), sa di Rahula vội chạy đến hỏi Tôn giả về sự tình hiện đang diễn ra thế nào? Ai là người chủ mưu?

Tôn giả Devadatta trả lời: “Dân tình ở đây khó lường quá. Những ngày trước họ còn quý mến Thế Tôn, bỗng qua một đêm tất cả thay đổi. Họ xúm nhau thóa mạ hủy báng Thế Tôn không ra gì. Có lẽ chúng ta nên khuyên Thế Tôn rời đi nơi khác hay về lại Savathi.”

Sau khi nói chuyện với Tôn giả Devadatta, Rahula liền chạy đến gặp Tôn giả Ananda và được Tôn giả Ananda đáp: “Này Rahula, nếu con mà nghe những lời họ xúc phạm Thế Tôn thì chắc con không chịu nổi đâu. Ta không muốn nhắc lại”.

Thế là Rahula lại tiếp tục chạy đến gặp Tôn giả Kimbila và được Tôn giả trả lời rằng: “Chuyện gì cũng có nguyên nhân, Thế Tôn tự biết cách xử lý việc này. Thế Tôn thanh thản đi vào sự tôn kính thì cũng thanh thản đi vào sự hủy báng. Chú đừng bận tâm quá mà hao tổn tinh thần…”

Nhận được câu trả lời an ủi từ Tôn giả Kimbila nhưng Rahula cảm thấy lòng buồn rười rượi rồi đến đảnh lễ Đức Phật.

Đức Phật cũng an ủi và bảo Rahula đừng buồn: “Như Lai bình thản đón nhận sự tôn kính từ cõi trời thì cũng bình thản đón nhận sự hủy bán của con người”. Rahula chấp tay nghe Đức Phật nói mà lòng đau xót, kính xin Đức Phật rời bỏ nơi này để đến nơi khác giáo hóa chúng sinh.

Đức Phật liền bảo: “Nơi yên bình thật sự chính là một nội tâm định tĩnh của mình chứ không phải nơi có người yêu quý mình”.

Rồi Đức Phật ân cần bảo Rahula vừa đi xa về mệt hãy ăn chút gì rồi nghỉ ngơi. “Cái gì khởi lên ở đâu thì sẽ chấm dứt ở chỗ đó, con đừng lo mà”, Đức Phật ôn tồn bảo.

Đêm đến, Rahula lẻn ra ngoài nghe các thám tử báo cáo. Một thám tử thưa rằng: “Những người hủy báng Thế Tôn không phải dân ở Kosambi mà là những vùng quê xa kéo về. Đêm đến, họ nằm la liệt ở các mái hiên, góc chợ, gốc cây, coi nhớp nhúa lắm. Tuy nhiên, họ lại có tiền mua sắm và ăn uống thoải mái, do đó chúng thần nghĩ có ai đó đứng đằng sau trả tiền cho những việc này”.

Sau khi nghe xong, Rahula bảo các thám tử đi bắt cóc ba người trong nhóm dân vừa kể, lựa người có vẻ hung hăng nhất, đem đến bìa rừng Sừng Bò, phía Đông gặp Rahula. Đêm đến, các thám tử chụp thuốc mê ba người đàn trong số những người dân quê rồi vác lên vai chạy về phía chỗ Rahula đang đứng chờ, sau đó lay họ tỉnh dậy, kề dao vào cổ một người đàn ông và hỏi: “Ai xúi giục các ngươi mỗi ngày đứng chờ bên đường để chửi bới Thế Tôn Gotama? Nếu không nói, ta giết ngươi liền”.

Người đàn ông đó trả lời rằng nếu ông nói ta thì cả nhà ông ở quê sẽ bị giết hết. Và chỉ khi các thám tử hứa sẽ bảo vệ tính mạng cho họ và gia đình họ, đồng thời không nói cho ai biết thì người đàn ông đó mới khai rằng ông cũng không biết tên họ người đã thuê, chỉ biết ông ta qua dấu hiệu. “Ông ta cũng có nhiều thuộc hạ, bọn họ kiểm soát chúng tôi hằng ngày, trả tiền chúng tôi hằng ngày”, người đàn ông khai thêm.

Lúc này, vị thám tử nói: “Ngày mai, ta sẽ đứng cạnh ngươi, khi tên thuê đó xuất hiện thì ngươi bí mật ra dấu cho ta biết. Nếu ngươi la lên thì ta giết ngươi ngay…”.

Nói rồi các thám tử dẫn họ đi, Rahula đứng nhìn theo lòng căm phẫn…

Sáng hôm sau, Đức Phật lại đi khất thực. Vẫn nét bình thản, Đức Phật đi xuyên qua đám người chửi bới hung hãng. Rahula đi theo sau cúi gầm mặt xuống mà đôi mắt bốc lửa. Lát sau, Đức Phật quay về Tinh xá Ghosita. Lúc này, Rahula mới lẻn ra khu vườn cây gặp các thám tử.

Một người tâu: “Thần đã biết được kẻ thuê đám người dân quê này hủy báng Thế Tôn. Hắn ta cũng là một thám tử của vua Udena, nhưng đang nhận lệnh của hoàng phi Magandiya. Thần cũng không hiểu nguyên nhân vì sao xảy ra sự tình này. Cha và mẹ của hoàng phi Magandiya lại là cư sĩ thuần thành. Vài ba ngày lại mang vật thực cúng dường chư Tăng. Rahula nghe thám tử báo đi tới đi lui suy nghĩ rồi bảo các thám tử bí mật bắt cóc tên thuê đó ra bìa rừng Sừng Bò tối nay.

Khi các thám tử vừa mang người đến nơi, Rahula liền lạnh lùng hỏi tên chỉ huy: “Vì sao hoàng phi Magandiya sai ngươi, thuê ngươi chặn đường hủy báng Thế Tôn Gotama?” Rahula hỏi vài ba lần nhưng tên chỉ huy vẫn ngơ ngơ lắc đầu không hiểu.

Lúc này, một vị thám tử tiến lên: “Thưa chúa công, hắn không nghe ra ngôn ngữ phát âm của vùng Savathi (Xá Vệ). Xin để thần nói bằng ngữ âm Kosambi với hắn”.

Nói rồi vị thám tử quay sang hỏi tên chỉ huy tên gì? Ai chỉ đạo người thuê người hủy báng Thế Tôn Gotama suốt 15 ngày qua? Tên chỉ huy chỉ trả lời tên là Batula sau đó im lặng, không nói gì nữa.

Vị thám tử gằn giọng hỏi tiếp: “Cả thế gian này ai cũng tôn kính Thế Tôn Gotama, sao ngươi lại dám thuê người hủy báng Thế Tôn? Tội của ngươi trời không dung đất không tha. Bất cứ người nào giết ngươi sẽ chẳng có tội mà còn được phước nữa. Nhưng nếu ngươi khai ra ai chỉ đạo ngươi việc này thì ta tha cho ngươi. Nói mau”.

Batula vẫn im lặng không nói. Liền tức khắc vị thám tử rút dao cứa vào chân hắn, Batula ngã oằn người kêu lên nhưng vẫn không nói.

“Này Batula, ngươi không khai thì trước sau ta vẫn tìm ra kẻ chỉ huy. Nhưng mạng sống của ngươi hết cứu rồi. Tội xúc phạm Thế Tôn là tội lớn nhất trên thế gian này. Vì sự hủy bang của bọn ngươi mà nhiều người lung lay niềm tin với Chánh Pháp, rất tội nghiệp cho họ”, vị thám tử vừa nói dứt lời tức thì vung dao đâm Batula gục chết ngay lập tức. Bất ngờ trước hành động của thám tử, Rahula hét to “khoan đã”, nhưng đã quá trễ. Sau đó, vẫn khuôn mặt lạnh lùng, Rahula không nói lời nào.

Vị thám tử lúc này mới quỳ tâu: “Thưa chúa công, bao ngày qua thần quá sức căm phẫn việc bọn chúng xúc phạm Thế Tôn, nhưng phải nhẫn nhịn chờ chúa công hạ lệnh. Bây giờ sự oán hận ngút trời không thể kìm chế được, cúi xin chúa công tha thứ cho sự tùy tiện của thần. Nếu không thần xin nhận hình phạt xử tử cũng cam lòng. Rahula ngước mặt lên nhìn trời cao mà không nói lời nào. Thưa chúa công, nếu chúa công không trách phạt, thần xin phá tan bọn dân quê này, đuổi chúng về quê. Đồng thời, thần tiếp tục truy tìm kẻ chủ mưu đứng đằng sau việc này”. Rahula khẽ gật đầu rồi bước đi.

Buổi sáng, Đức Phật lại ôm bát vào thành Kosambi khất thực. Sadi Rahula ôm bát im lặng đi theo sau. Đám dân quê nhớn nhác đứng hai bên đường đón Đức Phật rồi ngơ ngác hỏi nhau không biết có chửi nữa vì tối qua không thấy ai trả tiền. Đức Phật lặng lẽ đi qua, không còn lời chửi mắng nào phát ra nữa.

Lát sau bỗng có một số lính tuần cầm gươm đi các đường phố đi các đường phố, gặp ai cũng hỏi: “Này bạn, bạn có thấy một người đàn ông tên Batula ở đâu không?”.

Tuy nhiên, chẳng ai biết nên chỉ ngơ ngác lắc đầu. Tiếp đó, một nhóm người khác trà trộn vào đám dân quê phao tin đồn: “Ai mà nhận tiền hủy bán Thế tôn Gotama thì sẽ bị vua Udena tịch thu tiền và còn chặt đầu nữa. Hãy mau trốn về quê đi.”

Thế là chỉ trong một thoáng, chẳng còn bóng dáng dân quê ở Kosambi nữa, kinh thành trở lại bình yên. Lúc này, nhiều người dân Kosambi mới tụm năm tụm ba tán thán Đức Phật rằng: “Sa môn Gotama hay thật. Bị bọn dân quê chửi mắng hủy nhục suốt nửa tháng nay mà vẫn không nói một lời nào, vẫn bình thản ôm bát đi xuyên qua đám người đó để đi khất thực. Sa môn Gotama đúng là bậc chân tu cao cả, có phẩm hạnh hoàn hảo. Đáng để chúng ta đến nghe giảng dạy giáo pháp.”

Rồi một người thắc mắc hỏi: “Nhưng thưa các hiền hữu bọn dân quê này ở đâu ra mà kéo đến đây nặng lời chửi mắng sa môn Gotama vậy? Tôi nghĩ có cái gì bí ẩn đằng sau việc kỳ lạ này.”

Một người khác cũng nói: “Việc xảy ra ồn ào ngay kinh thành mà sao không thấy vua Udena xử lý gì cả vậy kìa? Trước giờ vua Udena nhanh nhẹn giải quyết công việc lắm mà.”

Một thám tử cải trang, với gương mặt bí hiểm lắng nghe rồi nói với đồng đội: “Này hiền huynh, hãy về báo với chúa công là âm mưu hủy báng Thế Tôn có thể xuất phát từ nội cung của vua Udena.”

Đêm đến, Rahula lẻn ra khỏi phòng nghe các thám tử báo cáo. Một thám tử thưa rằng, sự việc dân quê từ đâu kéo về hủy báng Thế Tôn gây ồn ào náo kinh thành suốt nửa tháng nay mà không thấy vua Udena có động thái giải quyết gì nên chúng thần suy luận rằng âm mưu hại uy tín Thế Tôn có thể xuất phát từ nội cung của vua Udena.

Rahula nghe thám tử báo trầm ngâm rồi nói: “Vì Kosambi ở xa Kapilavatthu nên chúng ta không cài nhiều người vào nội cung vua Udena nên không biết tường tận việc xảy ra bên trong. Vậy các ngươi bắt đầu cho cài người xâm nhập vào nội cung vua Udena để tìm cho ra chân tướng của sự việc này nhé.”

Sáng sớm, một số tỳ kheo ôm bát đi khất thực… Một người trong số đó tách riêng ra đi vào một ngã khác. Dọc đường, tỳ kheo đó gặp một số người ngồi ăn uống bên đường gọi vào cùng ăn uống cho vui rồi nói: “Này sa môn, sao lúc này thấy ông vui vẻ thế?”

Vị tỳ kheo trả lời: “Này các hiền huynh sống thì phải vui vẻ dù là xuất gia, chứ nghiêm túc quá cũng có khi bị người ta chửi bới, sợ lắm”.

Nghe vậy, một người đang ngồi ăn nói: “Suốt nửa tháng qua Sư phụ của thầy bị dân ở đâu kéo về chửi bới tàn tệ. Lúc đó, các thầy ở đâu vậy?”.

Vị tỳ kheo đáp: “Tôi thấy họ làm dữ quá nên cũng ngại. Sư phụ mình mà con bị như vậy thì mình ăn thua gì. Thôi lảng tránh cho yên chuyện cho rồi.”

Người trong bàn ăn lại tiếp tục hỏi: “Tôi nghe đồn Sư phụ của thầy đã từng hiển thị đại thần thông bay lên cõi trời suốt 3 tháng mùa hạ. Được Chư Thiên đón tiếp vinh quang, sao bây giờ ra nông nỗi này. Như vậy, liệu chuyện Sư phụ thầy bay lên trời là có thật không ạ?”.

Vị tỳ kheo đáp: “Chuyện Thế Tôn hiển thị đại thần thông năm đó ở xứ Kosala nên tôi cũng chỉ nghe kể chứ không biết thế nào. Còn vừa rồi không hiểu lý do gì mà dân quê ở đâu kéo về kinh thành hủy báng Thế Tôn khiếp quá, mà lạ là chẳng thấy vua Udena làm gì.”

Người ngồi trong bàn lại nói tiếp: “Sau việc đó, nhiều người cảm thương Sa môn Gotama giỏi chịu đựng, nhẫn nhục. Nhưng nhìn chung là mọi người cũng nghĩ sa môn Gotama cũng chỉ là một người bình thường thôi, tuy rằng có đạo đức. Họ nghĩ rằng một vị Thánh thì không để cho người ta chửi bới quá sức như vậy. Thầy nghĩ sao?”.

Vị tỳ kheo im lặng không nói gì.

Lát sau, khi vị tỳ kheo đã rời khỏi, một người đàn ông nói: “Này các hiền hữu khi Sư phụ bị nạn thì đệ tử cũng lung lay niềm tin. Người ta theo ai cũng hy vọng được hưởng theo những ưu thế. Chứ không ai đi theo một người bất hạnh để mình phải chịu chung hoạn nạn bao giờ. Có thể sắp tới nhiều đệ tử của sa môn Gotama sẽ rời bỏ Sư phụ mình. Còn nếu họ tiếp tục ở lại với sa môn Gotama vì chưa tìm được vị Sư phụ nào tốt hơn, thì tôi nghĩ họ cũng không còn vâng lời sa môn Gotama như trước nữa,…”. Đám đông lại tiếp tục bàn tán và cho lời của người đàn ông vừa nói là chí phải.

Trở lại tinh xá Ghosita, Đức Phật bảo Tôn giả Ananda hãy bảo các tỳ kheo đọc tụng các luật nghi mà Upali đã soạn ra và truyền lại lời dạy Đức Phật cho đại chúng. Ngay sau đó, các tỳ kheo liền tập trung về giảng đường, ngồi chụm lại thành vòng tròn nhiều lớp đọc tụng các luật nghi mà Tôn giả Upali đã soạn. Hôm sau, các tỳ kheo cũng lại kéo đến nhà giảng lớn tiếp tục đọc tụng các luật nghi của Tôn giả Upali.

Một buổi sáng, hai vị tỳ kheo đi khất thực trên đường. Bỗng một vị tỳ kheo lên tiếng: “Này hiền hữu, sao tôi chỉ thích trùng tu lại các pháp của Thế Tôn dạy hơn là các điều luật. Các điều luật bảo đừng có làm cái này, đừng làm thế kia nghe mệt quá. Còn giáo pháp thì rộng lớn bao la và sâu sắc”.

Vị tỳ kheo còn lại đáp: “Nhưng có nhiều vị tỳ kheo khác lại cho rằng các điều luật là cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hành, dễ an trú thúc liễm thân tâm.”

“Các điều luật chỉ giữ ta cái dáng vẻ bên ngoài trông có oai nghi tề chỉnh, những giáo pháp mới cho chúng ta cái trí tuệ nội tâm sâu thẳm”, vị tỳ kheo nói ban đầu phản bác lại.

“Nếu không có thể giữ gìn những điều căn bản của thân nghiệp thì làm sao hiểu được giáo pháp, hiền huynh à? Theo tôi thì trước hết phải thực hành các điều luật căn bản làm nghiêm trang thân tướng cái đã”, vị tỳ kheo thứ hai nêu quan điểm. Cuối cùng hai vị đứng lại nói qua nói lại với nhau rồi mỗi người đi mỗi ngã.

Buổi chiều, trong tinh xá Ghosita, các tỳ kheo chia thành 2 nhóm đi qua hai phía. Một nhóm ngồi với nhau tụng luật. Một nhóm cũng kéo ra chỗ khác tụng các lời Phật dạy. Lúc này, Đức Phật lên tiếng bảo Tôn giả Kimbila, hãy gọi các tỳ kheo về giảng đường, Người có điều muốn nói. Tại giảng đường, khi Đức Phật bước vào, các tỳ kheo quỳ lễ Đức Phật rồi ngồi xuống lắng nghe.

Đức Phật nói: “Này các tỳ kheo, khi một tỳ kheo giữ gìn các luật nghi tốt đẹp, cũng chứng tỏ vị này thông hiểu được giáo pháp. Này các tỳ kheo, khi một tỳ kheo thông hiểu giáo pháp thì vị này cũng sẽ giữ gìn các luật nghi rất thuần thục.

Này các tỳ kheo, khi một vị an trú trong giáo pháp, thành tựu các luật nghi, chứng được các thiền định, thì có thể ngay đời này diệt trừ các hạ phần kiết sử và thượng phần kiết sử, chứng Niết bàn không còn tái sinh nữa, thành một vị A La Hán.

Này các tỳ kheo, khi một vị an trú trong giáo pháp thành tựu các luật nghi, chứng được thiền định, thì có thể ngay đời này diệt trừ năm hạ phần kiết sử chứng quả A Na Hàm, bỏ thân này sinh về cõi trời sắc cứu kính. Từ đó chứng A La Hán mà chứng nhập Niết bàn.

Này các tỳ kheo, khi một vị an trú trong giáo pháp, thành tựu các luật nghi, chứng được thiền định thì có thể ngay trong đời này diệt trừ ba phần kiết sử, chứng quả Tư Đà Hàm, có thể tái sinh lại một lần rồi nhập Niết bàn. Hoặc tái sinh vài lần vào vài gia đình rồi nhập Niết bàn; có thể chứng Tu Đà Hoàn, tái sinh bảy lần hoặc nhiều hơn rồi sẽ nhập Niết bàn.

Này các tỳ kheo, không có sự hơn kém sai biệt giữa người thông hiểu giáo pháp và tuân thủ luật nghi. Vì cả hai đều là phẩm chất của giải thoát.

Vì vậy, này các tỳ kheo, không được chia rẽ tăng chúng chỉ vì nghĩ rằng giáo pháp hay luật nghi hơn kém…”.

Nói xong, Đức Phật rời giảng đường về hương thất.

Các tỳ kheo chia nhau về các liêu phòng. Nhưng có một nhóm tỳ kheo ngồi với nhau rồi một tỳ kheo lên tiếng: “Thưa các Tôn giả, chúng ta vâng lời Thế Tôn nên không hề có ý chống trái gì nhóm bên kia. Nhưng ít ra họ cũng có thái độ tôn trọng chúng ta một chút chứ. Tôi đi ngang qua họ, khẽ cúi đầu chào mà họ chẳng thèm đáp lễ.

Này các hiền giả, nói gì thì nói, một tỳ kheo mà không có oai nghi luật tắc thì chúng sinh lấy gì phân biệt với ngoại đạo tà giáo. Cho nên phải thành thạo luật nghi làm căn bản rồi mới nói đến giáo pháp”. Vị tỳ kheo vừa dứt lời thì các tỳ kheo trong nhóm đều đồng thanh hô: “Trưởng lão nói chí phải, chí phải,…”

Ở một góc khác, một nhóm tỳ kheo cũng chụm đầu bàn tán nói về nhóm kia với thái độ hung hăng: “Bọn họ suốt ngày làm bộ đi đứng nghiêm trang như đóng kịch ấy nhưng bên trong cái bụng rỗng chẳng có chút đạo lý nào. Chẳng biết sao mà Thế Tôn lại cho cái bọn đóng kịch đó là có phẩm chất giải thoát nữa,…”.

Buổi sáng, Đức Phật cùng các tỳ kheo đi khất thực rồi về Tinh xá thọ thực. Vào buổi chiều, có hai vợ chồng vị trưởng giả là chưởng khố Ghosika xin được vào gặp Phật. Sau khi đảnh lễ Người, chưởng khố Ghosika nói: “Bạch Thế Tôn, con có người con gái nuôi tên là Samavati. Hiện là vợ vua Udena của xứ Kosambi. Cháu có tính nết thuần hòa, tử tế, biết thương người và vật. Thời gian gần đây mỗi khi vào thăm cháu, con đều nói đạo lý của Thế Tôn cho cháu nghe. Cháu tuy nghe qua trung gian con kể mà đã phát tâm tinh tấn tu tập. Hơn thế, còn hướng dẫn các cung nữ tu tập theo. Cháu cũng tha thiết được gặp Thế Tôn để xin quy y. Nếu được xin Thế Tôn cho phép cháu Samavati được đến yết kiến Người ạ”.

Đức Phật đồng ý và hỏi ngài Ghosika về nhân duyên ông nhận nuôi Samavati. Ngài Ghosika trả lời rằng: “Bạch Thế Tôn, có lần ở thành phố Bhaddavati bị bệnh dịch người chết gần hết. Cháu Samavati cùng với cha mẹ chạy thoát về Kosambi. Nhưng đến đây thì cha mẹ cháu cũng chết chỉ còn cháu. Lúc đó, con đang cho gia nhân phát chẩn cơm cho người nghèo từ các nơi chạy sơ tán đến đây. Cháu Samavati cũng ở trong dòng người đến nhận cơm nhưng đã mạnh dạn đến yêu cầu sắp xếp lại cho một lối vào nhận cơm và một lối đi ra. Nhờ vậy mà, không còn cảnh hỗn loạn chen chút. Con thấy cháu thông minh nên nhận làm con gái nuôi. Cháu càng lớn càng xinh đẹp đến nỗi khi vô tình gặp vua Udena thì vua xin cưới luôn”.

Sau khi nghe Ghosika kể, Đức Phật hỏi thêm về tiểu sử Ngài vì thân phận của ông cũng không kém phần lạ lùng so với con gái nuôi của ông.

Trưởng giả Ghosika trả lời: “Bạch Thế Tôn, vâng ạ. Thân phận con cũng rất lạ lùng ngang trái, nên con cảm thương cháu Samavati là vì thế. Con cũng là con nuôi của cha con, vốn là chưởng khố cho vua Udena. Cha con nhận nuôi con chỉ vì muốn giết hại con mà thôi. Nhưng không hiểu sao, dù rất nhiều lần tìm cách giết con, con đều thoát chết mà đứa con trai ruột của cha nuôi con lại chết thảm. Cuối cùng, cha con cũng chết vì buồn khổ, uất hận. Rồi gia tài và chức vụ lại lọt vào tay con một cách hết sức tự nhiên. Con cũng chẳng hiểu nghiệp nhân gì mà là lùng như vậy.”

Nghe kể xong, Đức Phật đáp lời: “Khi khác Như Lai sẽ kể cho ông nghe nhân duyên kiếp xưa của ông. Kiếp này hai vợ chồng ông dâng cúng tinh xá Ghosita này cho Chư Tăng là công đức nhiều lắm. Này Ghosika, vua Udena còn hai hoàng hậu nữa mà. Và hoàng hậu Magandiya là con gái của ông bà tướng số sống cách kinh thành không xa lắm.”

Trưởng giả Ghosika đáp lời: “Bạch Thế Tôn, hoàng hậu Vasuladatta thì khôn khéo và tử tế nên cháu Samavati đỡ cực. Riêng hoàng hậu Magandiya thì rất thủ đoạn khiến cho cháu Samavati phải đối phó hết sức vất vả…”

Hôm sau, hoàng hậu Samavati, vợ vua Udena xứ Kosambi cùng hàng trăm người xin được vào thăm Đức Phật.

Sau khi đảnh lễ Người, hoàng hậu Samavati thưa về thân thế của mình rồi nói: “Bạch Thế Tôn, nhiều lần con được cha Ghosika đến thăm và giảng về đạo lý cao siêu của Thế Tôn. Con khởi tâm tôn kính tột độ nên đã xin phép đức vua Udena cho con được đến thăm Thế Tôn.

Trước kia, con có gặp Tôn giả Pindola Bharadvaja (Tân Đầu Lư Phả La Đọa) khi Tôn giả dùng thần thông bay đến vườn Thượng uyển. Tôn giả cũng đã giáo hóa quy phục vua Udena tin theo Tam Bảo. Vua Udena cứ nói rằng mong được gặp Thế Tôn vì Thế Tôn là sư phụ của Tôn giả Pindola Bharadvaja. Nhưng từ khi Thế Tôn về kinh thành này đã lâu, không hiểu sao vua Udena cứ do dự, trầm ngâm chẳng chịu đến lễ Thế Tôn.

Con xin đi thăm Thế Tôn thì vua cho phép không cản trở. Nhưng con nói xa nói gần rủ vua cùng đi thì vua yên lặng lắc đầu. Con cũng chẳng hiểu sao nữa ạ.”

Sau khi nghe Samavati nói, Đức Phật trả lời: “Này hoàng hậu Samavati, việc gì cũng có nguyên nhân của nó. Rồi cũng có một ngày vua Udena hiểu ra sự thật khi đã trải qua những điều đau xé lòng.”

Nghe Đức Phật nói xong, hoàng hậu Samvati cùng với trăm tùy tùng, thị nữ, cận vệ cung kính chắp tay, xin trọn đời quy y Phật, trọn đời quy y Pháp, trọn đời quy y Tăng,… rồi ra về.

Tại một góc cạnh ao sen, sa di Rahula ngồi cùng Tôn giả Ananda và hỏi: “Thưa Tôn giả con không biết vì nguyên nhân gì mà tăng đoàn ở đây chia làm hai phe cãi nhau kịch liệt. Ngay cả khi Thế Tôn đã dạy bảo khuyên lơn mà vẫn không thay đổi được tình hình bất hòa nặng nề thế này”.

Tôn giả Ananda đáp: “Này Rahula, sự cố chấp của con người thật là kinh khủng. Tăng đoàn ở Kosambi này từ lâu có vẻ tự phát, ít gần gũi Thế Tôn, ít gần gũi các bậc A La Hán, quen sống theo ý mình nên bản ngã chưa diệt được bao nhiêu. Hơn nữa, vừa rồi Thế Tôn bị nhiều người lăng mạ khiến tỳ kheo cũng giảm bớt lòng tôn kính với người”.

Nghe Tôn giả Ananda nói, Rahula trầm ngâm rồi hỏi tiếp: “Thưa Tôn giả Ananda, có thể nào có ai đó xuất gia trà trộn vào tăng đoàn với mục đích gây chia rẽ chăng?”.

Tôn giả Ananda đáp: “Này Rahula, từ lâu ta nghe tiếng đồn râm ran rằng cháu là người có nhiều tay chân thuộc hạ ngầm ở giới cư sĩ thế tục, dù cháu đã xuất gia. Ta cho rằng dù thế nào thì cháu cũng là người hết lòng bảo vệ Thế Tôn. Điều cháu suy đoán không hẳn vô lý. Nó thuộc về cách làm của những thế lực ngoại đạo từ lâu muốn chống phá Thế Tôn. Có thể họ càng lúc càng chuyển sang hoạt động bí mật hơn, nham hiểm hơn. Trước kia, khi còn ở Kapilavatthu, giai cấp Khattiya (Sát Đế Lợi) của chúng ta đều phải học về chiến đấu, thám tử, trị quốc. Chúng ta biết thì các thế lực khác cũng biết học giống như vậy. Bây giờ khi đã xuất gia theo thánh đạo của Thế Tôn thì tuyệt nhiên chúng ta không áp dụng các học nghệ đó. Nhưng các thế lực giống chúng ta thì họ không từ thủ đoạn nào đâu. Cháu có quyền suy luận theo hướng đó mà tìm cách xử lý khôn ngoan nhé!”.

Buổi chiều, Trưởng giả Ghosika dẫn theo nhiều bạn bè giàu có đến thăm Đức Phật và nghe Người giảng nhiều về nhân quả nghiệp báo: “Này các trưởng giả, bậc có trí tuệ thường biết tự hỏi tại sao chúng ta có mặt trên cuộc đời này. Tại sao có người giàu người nghèo, có người trí tuệ, có người ngu dốt… Này các trưởng giả, câu trả lời cho tất cả mọi điều của thế gian chính là nghiệp. Nghiệp đã khiến cho chúng ta có mặt ở cuộc đời này. Nghiệp cũng khiến cho chúng sinh khác nhau trên mọi phương diện. Vì thế, một bậc có trí tuệ thường biết cẩn thận ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh tốt lành. Vị đó biết trừ bỏ những ý nghĩ bất thiện. Vị đó luôn tạo ra nhiều công đức trong từng ngày, không để một ngày nào trôi qua vô nghĩa”. Nghe Phật giảng xong, các vị trưởng giả đảnh lễ và xin quy y làm đệ tử tại gia của Người. Sau đó, một trưởng giả thưa rằng, có một khu đất đẹp muốn dâng cúng để Đức Phật làm thêm Tinh Xá cho Chư tăng. Việc xây cất trưởng giả sẽ lo liệu hết. Một trưởng giả khác cũng thưa tương tự,…

Đợi mọi người thưa xong, trưởng giả Goshika nói: “Bạch Thế Tôn, hồi tháng trước, tự nhiên có nhóm dân quê ở đâu kéo về kinh thành chặn đường hủy báng Thế Tôn một cách khó hiểu kỳ lạ. Chúng con bực tức tìm cách giải thích, ngăn chặn thì có rất nhiều kẻ côn đồ xuất hiện đe dọa chúng con. Chúng con muốn về thăm Thế Tôn ở Tinh Xá thì bọn chúng gây rối ở các cửa hàng buôn bán của chúng con. Rồi bỗng nhiên bọn chúng rút đi, mọi chuyện bình thường trở lại cũng rất kỳ lạ. Chỉ xót xa Thế Tôn đi qua chuỗi ngày đó vất vả…”.

Đức Phật đáp: “Này trưởng giả Goshika, nhiều khi chúng sinh gây tạo ác nghiệp mà không biết hết quả báo của nó. Rồi những ai sau lưng xúi giục họ cũng không lường hết quả báo của ác nghiệp đó. Nhưng nếu Như Lai lảng tránh bỏ Kosambi này mà đi thì không dạy cho đệ tử một bài học về sự kiên cường nhẫn nhục. Bậc phạm hạnh không sợ hãi sự nhục mạ hay nguy hiểm,…”.

Sau khi các trưởng giả lễ Phật ra về, Tôn giả Nandiya chắp tay thưa: “Bạch Thế Tôn, vừa rồi có hai vị trưởng giả dâng cúng hai khu đất để làm Tinh xá, nhưng con thấy Chư Tăng ở Kosambi này cũng chưa nhiều, chỉ Tinh xá Ghosita này mà ở vẫn còn rộng”.

Sau khi nghe Tôn giả Nandiya thưa, Đức Phật nói: “Này Nandiya, coi vậy chứ sau này xứ Kosambi này lại đông Tăng chúng. Thực ra, việc xây dựng lại Tinh xá cũng còn lâu, ông hãy chọn người, giao việc trông coi, góp ý kiến cho hai trưởng giả đó xây Tinh xá”. Tôn giả Nandiya vâng lời rồi xin Phật trong mùa an cư kiết hạ sắp tới, Tôn giả cùng Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Kimbila sẽ về khu rừng Sừng Bò ẩn tu một thời gian vì cảnh trí ở đấy rất thanh tịnh, xinh đẹp, hợp với đời sống tĩnh tu khổ hạnh. Đức Phật đồng ý.

Đêm xuống, Rahula lẻn ra ngoài Tinh xá. Các thám tử quỳ thưa, tâm tình người dân ở Kosambi này rất khả ái, hiền lành.

Sau sự việc vừa rồi, họ đều cho rằng Thế Tôn là bậc đáng kính chân tu.” Rahula nghe xong ra lệnh cho các thám tử lập ra một nhóm đi lân la khắp kinh thành để kể về việc năm kia Đức Phật lên trời an cư thuyết pháp.

“Ta muốn cư dân ở đây phải tôn kính Thế Tôn tột độ chứ không phải chỉ là nghĩ tốt sơ sơ như thế. Bây giờ các ngươi phải tập nói chuyện, tuyên truyền, tung tin, giảng đạo, kể chuyện. Lời nói là một vũ khí sắc bén đánh vào tâm hồn con người. Các người thiếu kỹ năng sử dụng lời nói là thiếu đi một mảng quan trọng vô cùng. Hãy ngồi với nhau mà tập kể chuyện cho hay, tập giảng đạo cho hay, hấp dẫn. Vài ngày nữa ta sẽ kiểm tra, ai giỏi ta sẽ trọng thưởng”, Rahula nói. Các thám tử đồng loạt vâng lời.

Kế đó, họ báo tiếp tin tức từ nguồn tin ở Savathi (Xá Vệ), rằng vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) thường hay cho người giả dạng làm đạo sĩ xâm nhập trà trộn vào các giáo phái để theo dõi động tĩnh nắm rõ tình hình trong nước. Nhưng các đạo sĩ giả hiệu đó thường lén ra ngoài ăn chơi trác táng. Việc này cũng khiến cho các giáo phái bị ảnh hưởng uy tín không ít.

Hiện các thám tử cũng đang cho người canh chừng, nếu vua Pasenadi mà cài người xuất gia vào làm tỳ kheo trong Tăng đoàn của Thế Tôn thì các thám tử sẽ hoặc là ép họ phải bỏ ra đi hoặc là ép họ phải tu thật sự”.

Nghe báo vậy, Rahula cười mỉm và bảo: “Giả dạng cái gì chứ giả dạng thầy tu thật là khó”.

Trong khi đó, Đức Phật cho gọi tất cả đại chúng đến sân rộng trước hương thất của Người để dạy bảo. Khi mọi người đến đông đủ, Đức Phật nói: “Này các tỳ kheo, các ông không được chia rẽ chỉ vì cho rằng, giáo pháp là quan trọng hơn giới luật hay giới luật quan trọng hơn giáo pháp.

Này các tỳ kheo, nếu không có giáo pháp thì không có giới luật, nếu không có giới luật thì cũng không có giáo pháp. Các ông phải thấy sự đoàn kết hòa hợp của Tăng đoàn là điều quan trọng bậc nhất.

Này các tỳ kheo, có năm tội cực ác mà nếu phạm phải thì sẽ đọa vô địa ngục không biết ngày thoát ra.

Một là làm thân Đức Phật chảy máu.

Hai là giết A La Hán.

Ba là chia rẽ tăng đoàn.

Bốn là giết cha.

Năm là giết mẹ.

Thế nên, này các tỳ kheo, các ông phải tránh cái tội gây chia rẽ Tăng đoàn”.

Đức Phật vừa dứt lời thì một tỳ kheo lớn tuổi đứng lên nói: “Bạch Thế Tôn, xin hãy yên lòng, Thế Tôn xin hãy nghỉ ngơi cho khỏe. Chuyện này là chuyện của chúng con nên chúng con sẽ tự mình giải quyết mà không làm bận lòng Thế Tôn. Trước sau gì rồi trắng đen cũng rõ, trước sau gì rồi quần chúng, tín đồ sẽ biết ai là đáng kính,…”.

Vị tỳ kheo lớn tuổi vừa nói đến đây thì không khí xung quanh bỗng ồn ào, nhốn nháo cả lên. Các tỳ kheo bắt đầu cãi nhau ầm ĩ. Đến khi có một người la lên: “Thế Tôn đi đâu rồi kìa…”, thì lúc đó mọi người ngưng cãi để quay lại thì không thấy Đức Phật ở đâu nữa.

Mọi người đổ xô đi tìm nhưng chẳng ai tìm thấy. Rahula cũng hốt hoảng chạy khắp nơi, cũng chẳng thấy Đức Phật đâu… nên tìm đến Tôn giả Devadatta hỏi: “Thưa Tôn giả Devadatta, các Tôn giả Anuruddha, Kimbila, Nandiya đâu rồi ạ? Nếu con hỏi các Tôn giả A La Hán đó thì sẽ biết Thế Tôn ở đâu phải không ạ?”

Tôn giả Devadatta trả lời: ‘‘Này Rahula, cách đây 3 ngày, ba vị Tôn giả đó đã xin phép Thế Tôn đến khu rừng Sừng Bò của xứ Vajji để tĩnh cư một thời gian rồi. Từ đây đến xứ Vajji đó rất xa’’.

Rahula chào Tôn giả Devadatta rồi đi nhanh ra ngoài lẫn vào rừng cây cất tiếng hú ra hiệu cho các thám tử. Lát sau, hai thám tử phi thân đến chắp tay. Rahula căng thẳng bảo họ hãy tỏa người chia nhau tìm kiếm Đức Phật các nơi nếu có tin gì thì báo ngay. Ba người khác sẽ theo Rahula tìm Tôn giả Anuruddha (A Nâu Lâu Đà) vì Rahula nghĩ Tôn giả sẽ biết Đức Phật ở đâu. Các thám tử vâng lệnh rồi biến nhanh vào rừng cây.

Ở Tinh Xá mọi người nháo nhác bất an. Tỳ kheo Devadatta gọi các tỳ kheo lại rồi nói: “Này các hiền giả, tỳ kheo, Thế Tôn đi đâu không biết nhưng mùa mưa đã đến thì chúng ta vẫn phải tác pháp an cư. Vậy tôi đề nghị các hiền giả tỳ kheo ngày mai sau khi đi khất thực về chúng ta sẽ tác pháp an cư ba tháng mùa mưa này. Các tỳ kheo lao xao đáp: “Vâng, Tôn giả Devadatta nói chí phải, chúng ta vẫn phải tác pháp an cư. Xin Tôn giả chủ trì lễ tác pháp an cư cho chúng tôi”.Tôn giả Devadatta im lặng đồng ý.

Buổi sáng, Rahula chào Tôn giả Devadatta rồi hóa trang cưỡi ngựa phóng nhanh về hướng khu rừng Sừng Bò cùng với ba thám tử. Khi đến bìa rừng, mọi người dừng lại chưa biết đi đâu thì chợt có một tiều phu gánh củi đi từ trong rừng ra.

Rahula liền hỏi: “Thưa ông, ông có thấy 3 vị sa môn ở trong khu rừng Sừng Bò này không ?’’.

Vị tiều phi trả lời, mấy hôm trước có 3 vị sa môn đến đây, vào trong rừng sâu kia tĩnh cư. Mỗi ngày có ra làng khất thực rồi quay vào rừng, nhưng ít nói, chẳng tiếp xúc với ai. Có vẻ cũng không muốn ai quấy rầy. Ông kể, ông có đi ngang chỗ các vị , nhưng các vị chỉ mỉm cười ra ra dấu cho ông tránh đi.

Nghe vị tiều phu nói vậy, Rahula xin ông đưa đến chỗ ba vị Tôn giả.

Vị tiều phu trả lời: “Này vị sa môn trẻ, tôi phải gánh bó củi này về nhà rồi mới quay lại vào gánh 1 gánh nữa. Sa môn trẻ hãy chờ tôi ở đây, khi quay lại tôi sẽ đưa sa môn đi nhé”.

Lát sau, vị tiều phu trở lại mang cho Rahula và 3 thám tử ít thức ăn, sau đó hai người cùng đi vào rừng.

Khi gần đến nơi vị tiều phu nói với Rahula: “Này sa môn trẻ, qua khỏi rặng cây đó là chỗ các vị sa môn trú ngụ”.

Rahula đi vào và nhìn thấy các nhà cỏ, các lu đựng nước, sân chung ở giữa và các Tôn giả đang ngồi nhập định bất động. Cảm thấy mệt, Rahula ngả lưng tựa vào một góc cây to rồi ngủ quên. Cho đến khi bị Tôn giả Anuruddha lay, Rahula mới giật mình thức dậy. Thấy Tôn giả Anuruddha, Rahula thưa chuyện Đức Phật bỏ đi rồi nói: “Con nghĩ là các Tôn giả biết Đức Phật ở đâu nên tìm đến đây. Xin các Tôn giả nói cho con biết để con đến hầu hạ chăm sóc Thế Tôn ạ.”

Tôn giả Anuruddha trả lời: “Này Rahula, Thế Tôn làm việc gì cũng có ý tứ sâu xa. Thế Tôn im lặng bỏ đi cũng là một sự im lặng sấm sét cần thiết để thức tỉnh đại chúng. Con đừng lo lắng. Hãy quay lại Tinh xá an cư mùa mưa và tu tập như mọi người.”

Rahula đáp: “Nhưng ít ra con phải biết Thế Tôn ở đâu thì con mới yên lòng được ạ.”

Thấy Rahula tỏ ra lo lắng và cương quyết muốn biết, Tôn giả Anuruddha đành trả lời: “Này Rahula, Thế Tôn đến một khu rừng phía Bắc để an cư mùa mưa này một mình. Thế Tôn vẫn thỉnh thoảng an cư một mình mà, không sao đâu, con đừng lo.”

Rahula lúc này rơi nước mắt nói: “Con sẽ tìm cho ra để đến bảo vệ chăm sóc cho Thế Tôn.”

Tôn giả Anuruddha thấy vậy, nói sẽ cho Rahula biết chỗ nhưng bảo Rahula phải hứa là không được làm gì khác chỉ được âm thầm chăm sóc Thế Tôn kín đáo mà thôi. Chúng ta phải tôn trọng ý nguyện của Thế Tôn. Nói rồi Tôn giả Anuruddha chỉ đường cho Rahula thật cặn kẽ.

Rahula đảnh lễ 3 Tôn giả rồi tức tốc phi ngựa cùng các thám tử đến nơi Đức Phật đang ở. Khi gần đến nơi, Rahula dừng ngựa và bảo các thám tử: “Các ngươi không được làm gì kinh động đến Thế Tôn, không được gặp trực tiếp Thế Tôn nhưng vẫn phải chăm sóc hầu hạ Thế Tôn chu đáo. Ta sẽ cất một cái chòi ở ngoài bìa rừng để tìm thức ăn và nấu nước cho Thế Tôn tắm hằng ngày. Các ngươi hãy mang những thứ ấy vào đặt gần chỗ Thế Tôn ở. Thế Tôn sẽ hiểu ý mà tùy nghi sử dụng mọi thứ”.

Lúc này, Đức Phật ngồi thiền dưới gốc cây, một con hổ đến gần ngồi cạnh Đức Phật rồi lát sau bỏ đi. Đức Phật xuất định rồi đứng dậy đi kinh hành. Xong, người đến một tảng đá có đặt sẵn thức ăn trút vào bát rồi ngồi thọ thực. Thọ thực xong, Người lấy bình nước để sẵn để rửa tay. Sau đó, Đức Phật quay trở lại gốc cây to. Người ngồi như thể ngồi Thiền để nghỉ ngơi. Trời bắt đầu đổ mưa… Đức Phật đi vào trong một hốc cây có các rễ bao quanh để nằm nghỉ. Một con voi từ đâu đi đến nhìn rồi nằm xuống bên ngoài hốc cây như để hầu Đức Phật…


TẬP 29: ĐỜI SỐNG THANH CAO

Buổi sáng, khi mặt trời lên Đức Phật xả thiền rồi đi dạo khắp khu rừng Kakhita. Chim muông cũng réo rít, bay quanh Đức Phật hót vang. Trên đường đi, Đức Phật dừng lại ngồi thiền trên phiến đá sau khi đã rửa mặt, rửa tay xong tại dòng suối trong vắt.

Khi ngài trở lại gốc cây, thì từ đâu, ai đó đã chuẩn bị sẵn đồ ăn và thức uống cho ngài.

Bổng một con vượn lớn xuất hiện, nhìn chăm chú khi Đức Phật đang thọ thực. Được Đức Phật chia bớt phần ăn của mình, Vượn ta bỏ đi và quay lại với rất nhiều trái cây ngon cùng ăn với Thế Tôn.

Từ đó, Vượn luôn đi theo và ngắm nhìn Đức Phật, đến việc rửa tay, uống nước úp chén, kinh hành, tọa thiền hay tắm rửa.

Đêm xuống, cả bầu trời sáng rực hào quang, Chư Thiên bay xuống và hỏi Đức Phật về giáo pháp.

Ở một gốc rừng khác, các thám tử cũng đang trình báo về tất cả hoạt đồng của Đức Phật trong ngày cũng như việc chăm sóc Đức Phật từng miếng ăn giấc ngủ cho Rahula. và nhận nhiệm vụ mới. Các thám tử phải trà trộn vào dân chúng, giải thích cho họ nghe tại sao Thế Tôn lại lặng lẽ biến mất như vậy.

Cũng do các Tỳ Kheo cố chấp muốn chứng tỏ cái tôi của mình, muốn có nhiều người vâng lời mình, muốn lôi kéo phe cánh nên họ đã rỉ tai thuyết phục các Tỳ Kheo khác đi theo giáo pháp hay giới pháp của riêng mình. Nhưng thật ra, Thế Tôn chưa hề đưa ra giới pháp nào và cũng chưa hề đưa ra sự cấm đoán nào cả. Những điều luật do tôn giả UPALI lập ra rồi ban hành sau khi được Thế Tôn chấp nhận cũng chưa phải là giới pháp chính thức mà chỉ là những khuôn mẫu quy tắc ứng xử mà thôi.

Rahula giải thích thêm, Giới pháp là sự nghiêm cấm triệt các hành vi vi phạm của các tỳ kheo, ai vi phạm sẽ chịu một hình phạt thích đáng. Nhưng riêng Tăng đoàn thì không thể áp dụng kỹ luật, hình phạt và ban thưởng mạnh mẽ như với lực lượng thám tử được. Vì thế, không biết vài trăm năm sau, vài nghìn năm sau khi mà Thế Tôn không còn, khi mà không còn ai chứng quả vị A La Hán nữa thì liệu rằng Tăng đoàn có thể phát triển mạnh mẽ được hay không.

Rahula một mặt, cho các thám tử bí mật theo Thế Tôn, chăm sóc Thế Tôn từng miếng ăn, giấc ngủ. Mặc khác, cũng tìm cách gây áp lực cho các Tỳ Kheo ở Kosambi để họ kinh sợ mà sửa lỗi, để biết tìm Thế Tôn sám hối. Ngài đã cho người trà trộn và dân chúng Kosambi, giải thích cho mọi người biết về sai lầm của hai nhóm Tỳ Kheo vì cố chấp ý mình để gây ra chia rẽ, đến mức trầm trọng là không còn nhu thuận vâng lời Thế Tôn, khiến Thế Tôn phải im lặng bỏ đi. Đến khi nào, dân chúng Kosambi phẫn nộ phản ứng mạnh thì các Tỳ Kheo biết sợ.

Việc Thế Tốn bị người dân phỉ báng rồi rút đi là do hoàng hậu Magandiya đã thuê đám dân quê kéo về Kosambi chặng đường phỉ báng Thế Tôn. Đến ngài Rahula cũng không biết nguyên nhân vì sao hoàng hậu lại làm vậy. Hoàng hậu Magandiya khác hẵn với tính các của 2 hoàng hậu khác trong cung là Sawavani và Vasuladatta. Hoàng hậu Sawavani luôn luôn sùng bái, ca ngợi thế tôn với vua Udena (Ưu điền), còn hoàng hậu Vasuladatta thì vui vẻ bình thường chiều theo ý vua chứ không có ý kiến riêng. Tuy nhiên, thái độ bình thản của Thế Tôn đã thuyết phục dân chúng rất nhiều.

Vua Pasendi rất phẫn nộ về việc này, dân chúng dám cả gan chặn đường hủy báng Thế Tôn suốt 10 ngày mà vua Udena lại im lặng không làm gì cả, định bụng nếu vua Udena không trả lời được thì sẽ bắt giữ và truất ngôi luôn. Lại thêm nữa, các tỳ kheo chia ra làm hai nhóm tranh cãi nhau, Thế Tôn khuyên bảo mà chẳng nghe khiến Thế Tôn phải bỏ đi mà không ai biết. Ngay lập tức, vua Pasenadi (Ba tư nặc) cho mời vua Udena (Ưu Điền) về thăm Savathi (Xá Vệ) để hỏi hang tình hình Kosambi và cũng để chấp vấn tại sao vua Udena để xảy ra tình trạng như vậy.

Đồng thời, nhà vua cũng đi gặp tôn giả Sariputa (Xá Lợi Phất) ở Kỳ Viên để hỏi. Nhà vua được tôn giả Sariputa và Upali giả thích rất cặn kẽ.

Việc Thê Tôn bị dân chúng Kosambi hủy báng cũng là oan trái kiếp xưa phải trả, nhưng một bậc đại giác trả nghiệp với thái độ đại hùng đại lực đối diện không tránh né, không sợ hãi. Chính thái độ im lặng nhưng dũng cảm của Thế Tôn là những lời giáo huấn quý giá cho tất cả chúng sinh.

Còn việc cái Tỳ Kheo ở Kosambi chống nhau vì chấp giữ hai quan điểm. Một nhóm cho giáo pháp là quan trọng, một nhóm cho giới pháp là quan trọng. Giáo pháp là những lời dạy của Thế Tôn, giúp chúng sinh hiểu ra chánh pháp, rồi theo chánh pháp mà sống cho đúng, tu hành cho đúng dần dần diệt trừ tham sân si, đắc các quả thánh giải thoát. Còn giới pháp là những quy tắc sau khi đã rút ra từ giáo pháp. Ví dụ, giáo pháp dạy ta không tham lam, thì giới pháp cấm ta ăn cắp. Giáo pháp dạy ta không sân, thì giới pháp cấm ta sát hại xúc phạm. Giáo pháp dạy ta nhu thuận, thì giới pháp cấm ta cãi bướng. Giáo pháp dạy ta vô nhiễm, thì giới pháp cấm ta dâm dục. Vậy giới pháp và giáo pháp là một. Cái này làm thành cái kia, cái này có, cái kia có.

Thuở Thế tôn bắt đầu giáo hóa thì các vị đệ tử đầu tiên hầu như là các bậc căn cơ nên chứng quả rất nhanh chóng, chứng quả rồi thì đời sống các vị cực kỳ thanh tịnh và mậu mực. Vì thế, Thế Tôn chẳng cần phải đưa ra các điều ngăn cấm làm gì vô ích. Nhưng càng về sau thì trong Tăng đoàn không phải đều là bậc đại căng, có những tỳ kheo rất kém cỏi, có thể hành xử sơ suất sai lầm. Chính vì vậy mà, Thế Tôn sẽ bắt đầu nói về giới pháp từ đây, để giúp cho các Tỳ Kheo chưa chứng quả có thể nhờ giới pháp gọn ghẽ, dứt khoát, kiên định đó mà thúc liễm giữ gìn đức hạnh của mình, khi an trú được trong giới pháp thanh tịnh rồi, các tỳ kheo sẽ có thời gian để học hỏi giáo pháp mà tu hành lâu dài chín chắn hơn.

Khi đang trò chuyện với vua Pasenadi, Vua Udena nhận được tin báo, hoàng hậu Samavati đã bị hỏa thiêu chết trong cung với 20 cung nữ. Vua Udena tức tốc quay về ngay khi chưa kịp trò chuyện với vua Pasenadi. Dân chúng cũng đau lòng vì sao hoàng hậu Samavati nhân đức mà lại chết thảm quá, các tỳ kheo cũng chú nguyện cho hoàng hậu được sinh lên thiên giới.

Trong cung, vua Udena im lặng không nói gì cũng không biểu lộ cảm xúc gì, nhà vua cho người bí mật điều tra nguyên nhân cái chết của Hoàng Hậu. Những cũng chỉ suy đoán chứ không tìm được manh mối gì.

Một buổi sáng nọ, khi đang ngồi chỗ tòa nhà cháy, hoàng hậu Magandiya lặng lẽ đến gần vua tỏ vẻ thương xót hoàng hậu Samavati và khuyên vua nên giữ gìn sức khỏe, mọi chuyện đều do Phạm Thiên sắp đặt cả.

Nhìn thái độ hoảng hốt của hoàng hậu khi nghe đại vương nói “rõ ràng là có sự sắp đặt của con người trong việc này”.

Nhà vua tiếp lời: “Này Magandiya, rõ ràng đây là chuyện của ai đó gây ra nhưng ta không cho kẻ đó là độc ác, mà ta cho là kẻ đó giúp ta bớt đi một phiền toái. Vì hoàng hậu Samavati rất kính ngưỡng sa môn Gotama, suốt ngày cứ ca tụng sa môn Gotama trước mặt ta khiến ta phiền lòng. Mà không biết nói sao. Vì thế nói về tình nghĩa vợ chồng thì ta cũng chạnh lòng. Nhưng ai sắp đặt cuộc hỏa hoạn này thì đúng là giúp ta thoát khỏi phiền toái từ lâu.”

Nghe tới đây, hoàng hậu Magadiya hí hửng tiếp lời: “Sa môn gotama là kẻ xấu xa vậy mà Samavati lại ngu muội làm Đại vương phiền lòng đúng là đáng chết. Chính thiếp là người đã sắp đặt cuộc hỏa hoạn này để giúp Đại vương”

“Chính thiếp đã sai Thái tử thân tín của mình theo dõi người đường đi nước bước của Samavati, kể cả lúc đi vào tinh xa Goshita để cúng dường các sa môn đầu trọc. Sau khi biết được công việc hằng ngày cũng như các cung nữ thân cận rồi. Thiếp mua chuộc thị vệ bỏ đi uống rượu và vài cung nữ bỏ thuốc vào thức ăn và nước uống cho Samavathi. Vài người còn sót không bỏ thuốc mê thì cho sát thủ vào đâm chết. Sau đó, dốt cháy không còn dấu vết nào nữa.

Vua Udena rung rẩy trước sự tàn độc của Magandiya và đi về cung. Nhà vua cho bắt giết hoàng hậu Magandiya, rất nhiều tòng phạm trong vụ hỏa hoạn và cả thân tộc của hoàng hậu ở làng quê.

Lúc này, vì việc hoàng hậu bị thiêu chết, kinh thành loạn cả lên, dân chúng cũng nghe tin các tỳ kheo vì không nghe lời thầy, làm thầy mình bỏ đi nên cũng không còn cúng dường cho các tỳ kheo nữa. Các tỳ kheo vì thế mà phát sinh tâm lý bất mãn, bất an trách cứ các trưởng lão đã gây ra chia rẽ, ngang bướng không tuân thủ lời dạy của thế tôn.

Trước tình cảnh bức bách, các tỳ kheo đã quyết định đi tìm thỉnh Thế Tôn về lại tinh xá và cũng hiểu ra giới pháp và giáo pháp thật chất chỉ là một.

Rahula cùng chờ đón, đem thức ăn cho các tỳ kheo và chỉ cho họ chỗ của Thế Tôn.

Trời sập tối, ánh sáng của Đức Phật sáng rực cả góc rừng. Chú voi chúa và vượn cứ quấn quýt mãi bên người cùng với cái loài loài động vật khác.

Các tỳ kheo chạy tới, lạy khóc nức nở chung quanh Đức Phật.

Sáng ra, Đức Phật và các Tỳ Kheo rời khỏi khu rừng. Chú voi chú vượn khóc nức nở khi Phật không cho đi theo mà dặn dò ở lại sống hết kiếp rồi trở lại làm người tu tập với chánh pháp. Vì mang thân súc sinh không thể chứng được thiền định hay thánh quả.

Thế Tôn dùng thần lực đưa các tỳ kheo từ Kosambi tới Vaji gặp ba tôn giả Anuruddha, Kimbila và Nandiya để 3 vị kể về đời sống an lạc thanh cao của họ cho các tỳ kheo nghe.

Ba vị hằng ngày tòa thiền, kinh hành, đi ra làng khất thực và cảm thấy rất an lạc. Ba vị sống với nhau rất hòa hợp luôn tin tưởng nhau mọi điều vì các vị tôn giả hiểu rằng, 2 vị đồng phạm hạnh kia cũng là bậc tri kiến xuất thế siêu phàm. Ba vị không sống bằng tâm của mình mà sống bằng tâm của huynh đệ. Mỗi khi làm gì đều xem xét huynh đệ có thích điều đó hay không chứ không làm theo ý mình. Hằng ngày, các vị cũng rất ít nói chuyện, chỉ cần lấy tay ra hiệu là hiểu nhau rồi. Có khi chỉ cần một ánh nhìn là hiểu người kia muốn nói gì. Cũng không phải nói lên lời phân công mà các vị tôn giả tự chia nhau các công việc trong khu của mình. Người làm việc này thì người làm việc khác một cách rất ăn ý và hợp lý. Nếu có dùng lời nói thì chỉ nói về đạo lý, nhắc lại những lời dạy của Thế Tôn, hoặc phân tích các ranh giới của trí tuệ, có khi các thiên tử đến thăm ba vị tôn giả cũng trao đổi thuyết pháp.

Sống đời sống thanh bạch như thế, ba vị tôn giả có thể an trú trong chánh niệm, diệt trừ năm triền cái. Rồi chứng được thiền định thứ nhất hỷ lạc tràn đày, thiền thứ hai định sinh an lạc, thiền thứ 3 ly hỷ diệt lạc, thiền thứ 4 tịch tịch hoàn toàn. Ba vị có thể chứng nhập Không Vô Biên Xứ Định, Thức Vô Biên Xứ Định, Vô Sở Hữu Xứ Định, Phi Tưởng, Phi Phi tưởng xứ định, Diệt tận định. Cũng có thể chứng được Túc mạng, Túc minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh không phải tái sinh nữa.

Nghe tới đây, Đức Phật khen ngợi: “Các ông đã thành tựu được tri kiến của bct giải thoát hoàn toàn, đã sống được một đời sống thanh tịnh hòa hợp với nhau, đã làm niềm vui cho cả chư Thiên và loài người. Mãi về sau này, chúng sinh nào nghe được danh hiệu của ba tôn giả này và kính ngưỡng được thì rất nhiều công đức”

Các tỳ kheo đến đảnh lễ ba tôn giả và cùng Đức Phật rời khỏi khu rừng.

Dạ xoa cũng hiện ra đảnh lễ Phật và nguyện sẽ tiếp tục hỗ trợ ba tôn giả cho đến khi ba vị rời khỏi đây để trở lại kỳ viên. Đức hạnh của ba vị như viên ngọc hoàn hảo không tỳ vết khiến trời người đều tán thán. Các vị thần đều vang lên tiếng vang, ca ngợi ba vị tôn giả khắp cả đất trời.

Đức Phật dùng thần lực đưa các vị tỳ kheo trở lại Kosambi. Và giao việc trông coi tăng chúng cho Pindola Bharadvaja. Vì ngài là người ở đây, ngôn ngữ tương đồng, nên các tỳ kheo sẽ dễ tiếp nhận giáo pháp do ngày thuyết giảng.


TẬP 30: TÍN NỮ VISAKHA

Sau khi viếng thăm 3 vị Tôn giả Anuruddha, Kimbila, Nandiya và giao Tinh Xá Ghosita lại cho Tôn giả Pindola Bharadvaja trông coi Tăng chúng, Đức Phật cùng một số Chư Tăng lên đường trở về Tinh xá Kỳ Viên.

Tại thành phố Saketa, trong Dinh thự của thị trưởng Dhananjaya, một đoàn người quý phái đi vào cổng. Thị trưởng bước ra chắp tay chào đoàn người và mời họ vào phòng ngồi nói chuyện. Sau khi đã ổn định chỗ ngồi, một vị khách chắp tay thưa: “Thưa ngài thị trưởng Dhananjaya, hôm nay anh em các thương nhân chúng tôi tại thành phố Saketa này đến thăm ngài và có vài lời đề bạt xin ngài xét duyệt. Nếu những điều này được thực hiện thì sẽ rất có lợi cho thành phố Saketa của chúng ta”. Rồi vị khách nói: “Hơn 7 năm qua kể từ khi gia đình ngài dời từ xứ Anga về đây lập nghiệp, đã biến nơi này từ một ngôi làng nhỏ bé trở thành một thành phố sầm uất thịnh vượng. Vua Pasenadi đã liên tiếp gửi các phái đoàn về thăm và khen ngợi. Gia đình của ngài như có một sức hút bí mật nào đó mà cứ khiến cho nhiều người giàu có kéo về xây nhà cư ngụ rồi làm ăn sinh sống phát đạt. Mà có điều lạ là ai về đây ở dưới sự cai quản của ngài rồi cũng đều khá giả. Cư dân của thành phố Saketa này đều ca tụng ngài hết lời.”

Dừng một chút, vị khách lại nói tiếp: “Chúng tôi đến đây thăm ngài để nói lên những thành ý của mọi người như thế. Tiện thể, chúng tôi cũng xin ngài cho phép 5 anh em chúng tôi được mở nhiều trang trại nuôi ngựa giống để cung cấp cho những đoàn thương buôn đi ngang qua đây cần phải thay ngựa, thêm ngựa. Ngoài ra vua Pasenadi cũng cần nhiều ngựa chiến để trang bị cho quân kỵ mã, có thể đặt mua ngựa với số lượng lớn. Xin ngài xem xét cấp đất cho chúng tôi làm trang trại”.

Sau khi lắng nghe vị khách trình bày, thị trưởng Dhananjaya cất lời xin họ hãy để ông gọi con gái của mình là Visakha ra hỏi ý kiến một chút. Vì Visakha là người thường góp ý kiến cho ông rất nhiều trong việc cai quản Saketa.

Lát sau, các trưởng giả đều ồ lên kinh ngạc khi có một thiếu nữ cực kỳ xinh đẹp bước vào. Các ngài liền nói, từ lâu đã nghe đồn thị trưởng có con gái Visakha cực kỳ nết na đức hạnh và xinh đẹp, nhưng đến khi nhìn thấy tận mắt thì thật là vượt sức tưởng tượng. Cứ ngỡ là tiên hiện ra.

Tự hào trước những lời khen ngợi về con gái mình, ngài thị trưởng quay sang thuật lại lời đề nghị của các trưởng giả và hỏi Visakha việc này có gì lợi và bất lợi. Sau khi nghe cha nói xong, Visakha chắp tay chào các vị trưởng giả rồi nói một cách hết sức kính cẩn và khiêm tốn rằng việc muốn làm trang trại nuôi ngựa thì phải khẩn được nhiều đất trồng cỏ nuôi ngựa. Mà muốn khẩn nhiều đất thì phải phá thêm rừng hoặc thu đất có sẵn của nông dân đang canh tác.

Visakha phân tích: “Việc thu lấy đất của nông dân thì phải đền bù sao cho họ hài lòng chứ đừng ép uổng họ mà thất đức. Còn phá thêm rừng thì phải cẩn thận, vì con thấy ở đâu phá rừng xong thì xứ đó hay gặp tai ương, hoạn nạn về sau.”

Rồi cô khuyên: “Dù rằng phá rừng lấy gỗ để làm nhà cho ngựa ở thì cũng phải lễ cúng xin phép thần rừng, đồng thời hứa trồng lại rừng ở nơi khác để bù lại rừng đã mất.”

Kế đó, Visakha phân tích về việc chọn giống ngựa phải chọn giống cao to bền sức, rồi phải có mã y giỏi túc trực thường xuyên… Về thức ăn thì phải chọn giống trồng cho kỹ và không chỉ một loại cỏ… Rồi người chăm sóc ngựa cũng phải được rèn luyện tâm hồn thương yêu ngựa thật sự chứ không phải làm qua loa.

Cô nhấn mạnh: “Ngựa cũng như người, thậm chí còn có trực giác hơn người. Mình yêu thương chúng thì chúng sẽ không phụ mình…”.

Visakha tiếp tục nói, các vị khách há hốc ngồi nghe. Và khi cô dứt lời thì các vị trưởng giả liền hỏi rằng cô được ai dạy những kiến thức về ngựa như vừa nói trên. Visakha chấp tay khiêm tốn thưa rằng không có ai dạy cô về ngựa cả, những gì cô trình bày chỉ do quan sát trong cuộc sống mà hiểu.

Như giải thích thêm, thị trưởng Dhananjaya nói: “Thưa quý vị, con gái tôi rất lạ, có nhiều việc cháu chưa từng biết qua nhưng có ai hỏi đến là cháu chợt nhiên biết hết mọi điều”. Lời ngài thị trưởng vừa dứt, các vị khách bỗng xôn xao bàn cãi thích thú.

Visakha đi ra sau nhà bếp. Một gia nhân nữ đến gần và ghé sát tai Visakha nói rằng, hôm qua cô ta thấy Dala ăn cắp thức ăn ra khỏi nhà bếp mang về nhà, xin Visakha đuổi hắn đi. Visakha nghe xong trầm ngâm một chút rồi bảo gia nhân nữ đó kêu Dala đến. Gặp Visakha, thanh niên Dala run rẩy quỳ xuống van xin tiểu thư tha thứ vì lỡ dại lần đầu. Visakha không bắt lỗi mà từ tốn hỏi: “Này Dala, hãy nói cho ta nghe, ngươi đem thức ăn đó đi đâu?”

Dala trần tình, những thức ăn mà anh lấy đem về cho mẹ già vì thấy nó ngon quá mà mẹ chưa được ăn một lần trong đời. Anh không dám xin nên đành ăn cắp đem về cho mẹ nếm qua. Nhất là lúc này bà bệnh yếu không ăn được nhiều. Động lòng trước tấm lòng hiếu thảo của Dala, nhưng không thể tin người một cách mù quáng, Visakha liền ôn tồn nói: “Này Dala, chiều nay ta sẽ đến thăm mẹ của ngươi xem có đúng sự thật hay không. Thôi, ngươi cứ đi làm việc đi”.

Buổi chiều, Visakha đi ra ngoài cùng gia nhân đến nhà Dala. Trong căn nhà nhỏ, Dala quỳ xuống bên cạnh người mẹ già yếu của mình. Chứng kiến tình cảnh này, Visakha bước đến hỏi han rồi lấy vải và bánh cho bà… Trước khi ra về, Visakha gọi Dala ra ngoài nghiêm giọng nói: “Này Dala, dù mục đích của ngươi là tốt nhưng ăn cắp vẫn là sai. Nếu ngươi muốn lấy thức ăn cho mẹ thì cứ nói, ta có bao giờ hẹp hòi với các ngươi đâu”.

Sau sự việc này, gia nhân trong nhà tụm lại bàn tán và khen tiểu thư Visakha thật là nhân đức, xét việc gì cũng xét đến tận ngọn nguồn. Tâm tử tế khó ai bì kịp. Họ hết lời ca ngợi Visakha giống như nàng tiên từ trên trời hiện xuống cõi đời này vậy.

Một ngày khác, Visakha cùng mọi người đi ra đường, chợt trông thấy một vị tỳ kheo đi khất thực, cô liền bước đến chắp tay cúi chào và hỏi: “Thưa ngài sa môn, ngài là đệ tử của ai, đường lối tu hành thế nào ạ?”. Vị tỳ kheo trả lời: “Này nữ cư sĩ, tôi là đệ tử của Thế Tôn Gotama, người đến từ xứ Sakiya, là bậc đạo sư tôn quý dạy về khổ và sự thoát khổ”. Vị tỳ kheo vừa dứt lời, Visakha liền quỳ xuống thưa rằng mình cũng là đệ tử tại gia của Thế Tôn Gotama. Cô bày tỏ, cả gần mười mấy năm rồi cô chưa được gặp lại Thế Tôn, lòng cô thương nhớ Người không nguôi. Sau đó, Visakha cúng dường thức ăn cho vị tỳ kheo.

Sau khi thọ nhận, vị tỳ kheo nói: “Này nữ tín chủ, Thế Tôn có ngôi Tinh xá Kỳ viên ở Savathi nên người thường ghé về đó. Nếu nữ tín chủ muốn thăm Thế Tôn hãy về đó nhé”. Nói xong, vị tỳ kheo ôm bát đi. Visakha chấp tay chào, lòng phấn khởi. Cô nói: “Ta bắt đầu cảm thấy yêu Savathi rồi, vì nơi đó có Thế Tôn Gotama”.

Đi ngang một xóm nghèo, Visakha nói với gia nhân rằng, cô sẽ nói với cha mình đến đây mua đất, mở một xưởng dệt vải giúp cho các nông dân này có thêm nghề để mưu sinh. Việc trồng trọt ở đây có vẻ không đủ cho họ sinh sống. Cảm động trước những lời Visakha nói, một gia nhân nữ liền thắc mắc hỏi: “Con chưa bao giờ thấy tiểu thư lo cho mình điều gì, chỉ thấy tiểu thư chăm lo giúp đỡ hết người này đến người khác, rất kỳ lạ.”

Nghe người nữ gia nhân hỏi, Visakha quay sang nhìn cô với ánh mắt ngập tràn sự từ bi, thánh thiện rồi ôn tồn đáp: “Này gia nhân, gần 10 năm trước, khi ta còn bé, gia đình ta còn ở xứ Anga, thế rồi Thế Tôn Gotama du hóa đến đấy thuyết pháp cho nhân dân nghe. Ngay trong buổi thuyết pháp đó, tâm ta chợt bừng tỉnh, và ta không còn là con người của ngày xưa nữa”.

“Từ đó cho đến nay ta chỉ sống vì tất cả mọi người. Trong tâm ta không cho phép mình sống vì mình nữa. Sống vì mọi người là điều tự nhiên của tâm hồn ta như chúng ta hít thở khí trời vậy. Bây giờ mà bắt ta sống cho chính mình, ta thà tự sát còn hơn”, Visakha nói như thuyết với tất cả tấm lòng chân thành nhất của mình khiến cho tất cả các gia nhân ở đó đều tròn mắt cảm động và kính phục.

Visakha và gia nhân tiếp tục đi, khi đến đường phố trong thị trấn thì trời bất chợt đổ mưa. Các gia nhân lật đật chạy vào các mái nhà để tìm chỗ núp mưa. Riêng Visakha vẫn thong thả bước dưới mưa đi về mái nhà bên đường sau. Sự ung dung, điềm tĩnh này đã thu hút sự chú ý của 3 người đàn ông đứng gần đó và khiến họ nhìn chăm chăm về phía cô.

Lát sau trời tạnh mưa, Visakha và các gia nhân đi tiếp về nhà. 3 người đàn ông khi nãy vẫn đi theo sau cho đến khi Visakha và các gia nhân đi vào trong nhà rồi họ mới tản ra, hỏi thăm người dân ven đường về Visakha. Sau khi thu thập được rất nhiều thông tin về Visakha – một người con gái tài đức vẹn toàn, trí tuệ hơn người mà rất nhiều thanh niên ao ước có được, 3 người đàn ông chụm đầu bàn bạc với nhau rồi lên xe ngựa đi vào kinh thành Savathi.

Đến cổng một tòa nhà lớn, 3 người đàn ông ngồi nói chuyện với ông bà trưởng giả Migara và quý tử Vaddhana rằng: “Kính thưa các vị chủ nhân, 3 năm qua chúng tôi đã lặn lội ngược xuôi khắp nơi, xem xét dân tình, hỏi thăm phong hóa, chúng tôi nhìn ngắm chiêm ngưỡng biết bao nhiêu vẻ đẹp của các cô gái mọi miền, cô này có ưu điểm này, cô kia có ưu điểm kia nhưng 3 anh em chúng tôi đều có cảm giác rằng cậu chủ Vaddhana sẽ không ưng ý. Bất ngờ, khi đi qua thị trấn Saketa vào một ngày mưa, nhìn thấy một tiểu thư bước thong thả trong cơn mưa khi mà mọi người vội vã chạy tránh mưa, chúng tôi hiểu mình đã tìm thấy một con người khác lạ.”

Như không có từ ngữ nào có thể diễn tả được về người con gái ấy, 3 người đàn ông ngừng 1 lát, hồi tưởng lại rồi vung tay nói hăng say: “Nếu ai muốn biết vẻ đẹp của thiên nữ trên trời ra sao thì hãy nhìn tiểu thư Visakha này. Nếu ai muốn biết sự đoan chính tuyệt đối của một thiếu nữ ra sao thì hãy nhìn tiểu thư Visakha này…”

Ông bà trưởng giả Migara ngồi tròn mắt kinh ngạc trước lời diễn tả 3 người đàn ông. Riêng cậu chủ Vaddhana thì cười vang, nói: “Dù ta có khó tính đến đâu nhưng hôm nay nghe các ông kể về tiểu thư Visakha này thì đến đá cũng mềm ra, hà hà…”.

Hôm sau, đoàn xe chở nhiều vật phẩm đi về Saketa. Thị trưởng Dhananjaya ra cổng chắp tay chào đón rồi mời họ vào trong nhà. Khi mọi người đã ngồi ổn định, một người đàn ông chấp tay thưa ngài thị trưởng và nói: “Chủ nhân chúng tôi là trưởng giả Migara ở kinh thành Savathi, từ lâu có lòng ngưỡng mộ đến thị trưởng, luôn mong có dịp kết tình bạn lữ với ngài. Hôm nay là ngày đẹp trời, chủ nhân Migara sai chúng tôi mang nhiều lễ vật đến kính biếu, ra mắt thị trưởng trước, mong được ngỏ lời cầu hôn tiểu thư Visakha cho con trai là công tử Puna Vaddhana, để hai bên gia đình có được mối giao hảo bền chặt,…”

Sau một hồi nói rất lâu của người đàn ông, thị trưởng Dhananjaya nói: “Thưa quý vị khách quý, việc hôn nhân là việc hệ trọng, tôi muốn hỏi ý kiến con gái mình một chút”. Nói rồi ông sai gia nhân mời tiểu thư Visakha ra. Lát sau Visakha bước ra, chấp tay thi lễ chào các vị khách. Rồi trong khi ngài thị trưởng nói chuyện với Visakha gì đó thì các vị lắng nghe đồng thời tròn mắt kinh ngạc trước dung mạo và vẻ đẹp của cô.

Bỗng Visakha buột miệng kêu lên: “Ở Savathi à?” thì một vị khách thưa: “Vâng thưa tiểu thư Visakha, chủ nhân chúng tôi là trưởng giả Migara, ở kinh thành Savathi”.

Visakha liền chấp tay hỏi: “Thế quý vị có biết Thế Tôn Gotama không?”.

Vị khách đáp: “Có phải tiểu thư muốn hỏi về sa môn Gotama, một Thái tử xuất gia đến từ xứ Sakiya rồi về lập Tinh xá Kỳ Viên ở ngoại thành Savathi không ạ? Nếu đó là vị sa môn mà tiểu thư quan tâm thì thật sự là chủ nhân chúng tôi không phải là đệ tử của sa môn Gotama nên chủ nhân tuy có biết mà không rõ lắm”.

Visakha chắp tay hỏi tiếp: “Thưa quý khách, vậy chủ nhân của quý khách là đệ tử của bậc thầy nào ạ?”. Vị khách trả lời là bậc đạo Nigantha (Ni Kiền Tử). Visakha chắp tay nói, cô không hiểu rõ về đạo sư Nigantha này lắm. Từ khi còn bé, lúc ở xứ Anga, cô đã là đệ tử tại gia của đạo sư Thế Tôn Gotama.

Như hiểu ý của Visakha, vị khách liền xua tay trả lời: “Không sao, thưa tiểu thư không sao. Bậc đạo sư nào cũng dạy đệ tử ăn hiền ở lành. Chúng tôi cam đoan rằng chủ nhân chúng tôi sẽ tôn trọng vị đạo sư Gotama của tiểu thư, sẽ tôn trọng sự hành trì tu tập của tiểu thư do đạo sư Gotama dạy bảo. Và dĩ nhiên nếu tiểu thư về với gia đình của chủ nhân Migara thì tiểu thư cũng sẽ tôn trọng đạo sư Nigantha của chúng tôi mà”.

Vị khách nói đến đây, Visakha gật đầu và nói khẽ: “Tôi yêu Savathi…”. Thế là một đám cưới vô cùng linh đình diễn ra, chú rể Puna Vaddhana và cô dâu Visakha quỳ lại cha mẹ. Mọi người cùng chúc tụng nhau vui vẻ.

Một buổi sáng trong vườn nhà, Visakha xin phép chồng cho nàng đến Tinh xá Kỳ Viên để thăm Thế Tôn Gotama và được chồng đồng ý. Visakha cùng các gia nhân chất các vật phẩm lên xe rồi đi về Tinh xá Kỳ Viên. Đến nơi, Visakha chắp tay chào một vị tỳ kheo và xin hướng dẫn vào gặp Thế Tôn. Vị tỳ kheo đi trước dẫn đường. Vừa qua khúc quanh, Đức Phật đã đứng đó như chờ đợi. Nhìn thấy Phật, Visakha chạy ùa đến quỳ xuống ôm bàn chân Người khóc nức nở. Lúc này, vị tỳ kheo dẫn đường lúng túng nhưng thấy Phật đứng yên như chấp nhận nên lại thôi. Nhiều vị tỳ kheo khác cũng kéo ra đứng nhìn vì chưa có ai từng dám làm như vậy bao giờ.

Một lúc sau, Đức Phật cất lời: “Này Visakha, con đứng dậy đi, hãy đến đây ngồi”. Visakha đứng dậy, đi theo Phật, rồi quỳ xuống chấp tay cạnh chỗ Phật ngồi.

Lúc này, Phật mới ôn tồn hỏi thăm: “Này Visakha, con lấy chồng về Savathi thế nào?”. Visakha ngước lên nhìn Phật và trả lời: “Bạch Thế Tôn, con vốn không ham thích chuyện hôn nhân, chỉ muốn sống một đời tử tế giúp đỡ yêu mến mọi người. Nhưng khi nghe có một vị tỳ kheo nói Thế Tôn có Tinh xá ở Savathi, con bỗng tha thiết muốn về đây cư ngụ. Phận con gái không thể rời xa gia đình vô cớ nên con đành chịu. Duyên nợ thế nào mà con được cầu hôn bởi một gia đình ở Savathi.

Gia đình dòng họ Migara rất giàu có. Con nhận lời cầu hôn vì thật sự muốn về Savathi này. Cha mẹ cho con rất nhiều của cải đem theo nên con không bận tâm về tài sản. Vàng bạc con đem theo về chứa cả một kho riêng ở nhà chồng. Điều này cũng khiến gia đình chồng con có phần trọng thị con hơn. Nay con đã về đây con sẽ có cơ hội thường xuyên đến đây hầu hạ, nghe pháp từ Thế Tôn. Thật là hạnh phúc không gì bằng. Nhưng có lẽ con sẽ không đến Tinh xá Chư Tăng nhiều mà sẽ đến bên Tinh xá của Chư Ni thường hơn”.

“Bạch Thế Tôn, dù được Thế Tôn khai ngộ từ năm con 9 tuổi ở xứ Anga, tâm con luôn tự thúc đẩy chính mình phải sống cao thượng để đạt đến chân lý viên mãn. Nhưng sao lòng con vẫn còn nhiều cảm xúc. Gặp Thế Tôn rồi con không kiềm chế được cứ khóc như em bé làm phiền Chư Tăng quá ạ”, Visakha bày tỏ.

Đức Phật nhìn Visakha với ánh mắt nhân từ tựa như một người cha đối với con, Người nói: “Này Visakha, phải đến Tam quả A Na Hàm con mới có thể diệt hết mọi cảm xúc, tâm bất động như như. Bây giờ con có được cảm xúc đúng thì cũng không sao.”

Rồi Người bảo: “Này Visakha, vì gia đình chồng con quy y ngoại đạo nên thế nào rồi cũng có thái độ không vừa lòng đối với con. Nhưng con hãy nhớ lúc nào cũng giữ tư cách điềm đạm, ngoan hiền, bình tĩnh, lựa lời khéo léo để đối đáp, khiến cho gia đình chồng con không thể trách cứ con được”.

Người lại căn dặn: “Này Visakha, vì là gia thế giàu có nên người giúp việc sẽ đông. Con hãy đối xử tử tế với người giúp việc, phân công hợp lý công việc cho họ, dành cho họ thời gian nghỉ ngơi đúng mực, trả tiền công cho họ xứng đáng.

Này Visakha, vì là gia thế giàu có nên của cải sẽ rất nhiều. Con hãy hết sức cẩn thận giữ gìn tài sản cho gia đình đừng để thất thoát vì trộm cắp, phung phí, vì gian lận, vì làm ăn thua lỗ.

Này Visakha, dù là phụ nữ có chồng và gia đình chồng rất có thế lực, nhưng con là một cô gái xinh đẹp, dễ khiến cho nhiều đàn ông động tâm. Con phải giữ gìn ý tứ cẩn thận khi tiếp xúc với nam giới, không cho họ được cơ hội bày tỏ tình cảm sai trái…”.

Bằng những lời lẽ nhân từ, đức độ, khoan dung và trí tuệ, Đức Phật dạy bảo và căn dặn Visakha đủ điều. Có thể nói sự tận tình chu đáo của Người còn hơn cả một người cha đối với con gái. Visakha quỳ chắp tay chăm chú lắng nghe. Sau đó, cô quỳ lạy Phật rồi cùng gia nhân rời khỏi Tinh xá.

Đêm xuống, dưới tàn cây, Rahula hỏi Tôn giả Nanda: “Thưa Tôn giả, có phải thiếu nữ chiều nay đến thăm Thế Tôn chính là cô bé ở xứ Anga 9 năm về trước không ạ?”.

Tôn giả Nanda trả lời: “Đúng vậy, này Rahula, thiếu nữ này chính là cô bé Visakha 9 năm trước ở xứ Anga mà Thế Tôn đã cất công đi mãi về phía nam để hóa độ. Lúc gặp Thế Tôn lần đầu, cô bé đã chứng quả vị Tu Đà Hoàn. Kể từ đó, cô bé đã sống với một tâm hồn khác hẳn”.

“Một vị chứng Tu Đà Hoàn thì chưa có đặc biệt gì về tâm linh, nhưng đạo đức, trí tuệ thì vượt hẳn người thường. Đặc biệt là một vị Tu Đà Hoàn có lý tưởng sống rất cao cả, chỉ muốn phụng sự tất cả mọi người và thích đi tìm một nội tâm yên tĩnh dù chưa được hướng dẫn tọa thiền hoặc chưa thành thạo về công phu thiền định”, Tôn giả giải thích.

Rahula hỏi thêm: “Thưa Tôn giả, tại sao thiếu nữ Visakha không xuất gia mà lại lập gia đình, để vướng vào hôn nhân phiền lụy như vậy?”.

Tôn giả Nanda trả lời: “Này Rahula, quả vị Tu Đà Hoàn không đủ sức diệt mất ái dục hay tham sân nhưng nó giữ cho ta có lòng vị tha, có lý tưởng sống cao đẹp và có trí tuệ tinh tế. Vì thế Visakha không có ý niệm từ chối hôn nhân. Thêm một lý do nữa, kiếp xưa Visakha có phát nguyện làm người cư sĩ hộ đạo khi có Phật xuất thế. Vì lời nguyện đó mà kiếp này Visakha sẽ làm một cư sĩ phi thường, hộ trì Tăng chúng chu đáo cả đời. Qua khỏi kiếp này, xong lời nguyện, Visakha sẽ về cõi trời để tu hành và tiến bộ rất nhanh.”

Rahula tiếp tục hỏi: “Thưa Tôn giả Nanda, theo con biết thì vua Bimbisara, trưởng giả Sudatta (Cấp Cô Độc) chứng quả vị Tu Đà Hoàn,Tôn giả Ananda cũng chứng quả Tu Đà Hoàn. Nhưng tại sao người có phước lớn như vua Pasenadi lại không chứng được quả vị này ạ?”.

Tôn giả Nanda trả lời: “Này Rahula, giàu sang là một duyên phước khác, mà chứng quả Thánh là một duyên phước khác. Cả hai đều cần nhiều phước quá khứ mới có thể đạt được, nhưng vẫn có tính chất khác nhau. Chính vì cần phải có nhiều phước nên nhiều khi ta thấy ai chứng quả Tu Đà Hoàn đều cũng là người giàu sang. Nhưng chính vì tính chất hai loại phước khác nhau nên ta cũng thấy nhiều trường hợp người giàu sang mà không chứng quả hoặc người chứng quả Thánh mà không giàu sang”.

Đến đây, Rahula liền thắc mắc hỏi Tôn giả: “Khi nào thì mình biết mình chứng được Tu Đà Hoàn? Con ngồi thiền nhiều lúc cũng được cảm giác an lạc rất mới lạ, cũng nghĩ mình chắc chứng được gì, nhưng cũng còn nghi ngờ.”

Tôn giả Nanda trả lời: “Này Rahula, người chứng rồi thì không còn nghi ngờ, do dự, tự nhiên biết rất rõ. Con còn nghi ngờ là do chưa thật sự chứng quả Thánh nào cả. Cái cảm giác an lạc chút chút khi ngồi thiền đó chưa phải là bền vững, khi được khi không. Còn người chứng rồi thì có sự tự tin kiên định. Thế Tôn gọi là diệt trừ được kiết sử nghi. Con chưa diệt được kiết sử nghi nên vẫn còn do dự không chắc chắn. Con nhìn nét mặt của Visakha sẽ thấy vẻ vững vàng, tự tin là vì thế”.

Tôn giả giải thích thêm: “Kẻ phàm phu vì chủ quan kiêu mạn tưởng mình là đúng nên cũng phảng phất cái vẻ tự tin. Nhưng cái tự tin do chủ quan khác với cáo tự tin do chứng quả Tu Đà Hoàn. Cái tự tin do chủ quan chỉ là sự bướng bỉnh nên nó kèm theo kiêu ngạo, ích kỷ, hơn thua, hiếu thắng. Còn cái tự tin do quả vị Tu Đà Hoàn thì khiêm hạ, vị tha và nhường nhịn.”

Sau khi nghe Tôn giả giải thích tường tận, Rahula chuyển sang chủ đề khác: “Thưa Tôn giả, từ khi còn bé ở trong hoàng cung, con đã được học võ nghệ dù chưa được là bao. Con cũng được học công phu hít thở để luyện nội lực. Con nhớ lúc đó chính Tôn giả cũng dạy con một số kỹ thuật bổ sung với lời dạy của các vị giáo thọ sư. Đến khi xuất gia, khi ngồi thiền, con cũng được dạy phải hít thở, rất giống với luyện nội lực võ công của dòng Khattiya (Sát Đế Lợi).”

Tôn giả Nanda nói: “Này Rahula, thật ra thiền định cũng bắt đầu bằng việc luyện nội lực, có nội lực rồi mới có thiền định. Chỉ khác nhau là người luyện nội lực thì cũng hít thở theo phương pháp bí truyền của dòng Khattiya và trong tâm chỉ hướng đến mục tiêu làm sao đạt được sức mạnh bí ẩn đến nỗi đao kiếm chém không đứt. Còn người tu hành giải thoát cũng hít thở như thế nhưng trong tâm hướng về mục tiêu vô ngã. Nhờ hướng về mục tiêu giải thoát vô ngã nên vị này tiến xa trên con đường định tâm đến bất động hoàn toàn”.

Nghe Tôn giả nói đến đây, Rahula ngạc nhiên hỏi: “Thưa Tôn giả vừa nói người tập nội lực theo phương pháp bí truyền của dòng Khattiya có thể khiến cho đao kiếm chém không đứt à?”.

Tôn giả Nanda gật đầu nói: “Đúng vậy, Rahula, con sẽ thấy Thế Tôn khi chưa đắc đạo chánh đẳng chánh giác, lang thang trong rừng rậm ẩn tu, nơi mà môi trường sống cực kỳ khắc nghiệt với con người. Nơi mà thú dữ tìm mồi dưới đất, rắn rết tìm mồi trên cây, muỗi mòng bay vo ve loạn xạ. Nhưng khí lực sung mãn của Thế Tôn đã bảo vệ người khỏi sự tấn công của muỗi mòng là vì thế.”…

Nói về Visakha, sau khi về đến nhà thì chồng cô nói: “Này Visakha, sáng ngày mai cha Migara có thỉnh một số đạo sĩ Nigantha đến để cúng dường. Nàng bảo gia nhân sửa soạn thức ăn để phụ giúp cha làm nghi lễ cúng dường nhé!”.

Visakha trả lời vâng và hỏi chồng các đạo sĩ Nigantha là người thế nào? Chồng cô trả lời: “À đó là các đạo sĩ khổ hạnh dạy nhiều điều hay lẽ phải, có những vị có thần thông biết quá khứ vị lai. Cha rất kính ngưỡng các vị ấy. Từ ngày cha quy y các vị ấy thì tâm tánh cha cũng hiền lành hơn, biết yêu thương mọi người hơn, biết khiêm tốn không kiêu mạn. Nói chung là các đạo sĩ Nigantha đã dạy dỗ khiến cho cha ta tốt hơn xưa và cũng làm cho gia đình mình hạnh phúc hơn.”

Nghe nói vậy, Visakha liền hỏi: “Các vị đạo sĩ Nigantha dạy đạo lý thế nào, thưa phu quân?”.

Chồng cô trả lời: “Này hiền thê, các vị đạo sĩ ấy dạy rằng, sở dĩ con người đau khổ vì có nhiều dục vọng. Nếu ai biết từ bỏ các dục vọng thì sẽ hết đau khổ. Mà muốn từ bỏ dục vọng để chấm dứt đau khổ thì phải sống cực kỳ giản dị. Ta phải từ bỏ hết các nhu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống, bỏ đến mức không còn gì để bỏ nữa thì dục vọng sẽ hết”.

Nói đến đây, Visakha tỏ vẻ thắc mắc hỏi: “Thần thiếp không hiểu chỗ này lắm, bỏ hết nhu cầu thiết yếu nghĩa là sao ạ?”.

Chồng Visakha cười to trả lời: “Rồi ngày mai các đạo sĩ đến thì nàng sẽ thấy. Chính vì vậy mà ta phải cưới vợ, lập gia đình chứ không dám làm đạo sĩ, haha…”

Buổi sáng, mọi người tất bật. Visakha chỉ gia nhân sắp đặt thức ăn theo hai dãy ngồi nơi đại sảnh nhà khách. Thấy vậy, trưởng giả Migara xuýt xoa nói với vợ, Visakha giỏi quá, quán xuyến hết mọi việc thật chu đáo. Chợt có gia nhân chạy vào thưa rằng các vị đạo sĩ Nigantha đã đến. Ông Migara cùng nhiều người đi vội ra cửa để đón các vị đạo sĩ. Các đạo sĩ trần mình rất đông đi vào sảnh nhà khách. Lúc này, Visakha trố mắt nhìn theo, rồi đâm đầu chạy vào phòng khóc nức nở. Phản ứng này của Visakha khiến ông Migara giận dữ nhưng nén lại để tiếp đãi các đạo sĩ. Các đạo sĩ Nigantha ngồi chắp tay tụng kinh rồi bốc thức ăn vào bát để ăn. Sau khi ăn xong, ông Migara quỳ gối chắp tay trước người đứng đầu phái Nigantha nghe thuyết pháp. Từ trên bục cao, vị đạo sĩ này nói: “Này trưởng giả Migara, mọi thứ trên đời đều hư ảo, giả tạm vì vậy hãy buông bỏ để tìm thấy giác ngộ cao siêu…”.

Sau khi thuyết xong, các vị đạo sĩ ra về, trưởng giả Migara đứng ở cổng chắp tay chào từng vị rồi quay trở vào nhà la to: “Này Punna Vaddhana và mọi người ra hết đây, ngay bây giờ”.

Mọi người sợ hãi lấm lét kéo ra đầy sảnh. Punna Vaddhana cũng dìu vợ ra cùng mọi người.

Ông Migara bắt đầu cao giọng nói: “Này các người, hôm nay ta thỉnh được cả trăm vị đạo sĩ đáng kính Nigantha về đây thọ thực. Đó là phước báo vô lượng. Cả mấy ngày qua cả nhà cực khổ vất vả để chuẩn bị cho ngày thiêng liêng này”.

Rồi ông tức giận chỉ về phía Viskha nói: “Nhưng, Visakha vừa trông thấy các đạo sĩ thánh thiện đó đã bày tỏ sự bất kính. Đã không cúi lạy các vị đạo sĩ thánh thiện đó, lại còn nhăn mặt quay lưng chạy ra sau khiến ta thẹn chín cả người, không sao giải thích được. Lẽ ra ta sẽ giới thiệu người con dâu ngoan hiền giỏi giắn mà ta vừa cưới được cho con trai yêu quý của ta. Nhưng Visakha đã phủi bỏ tất cả, đã làm ta nhục nhã giữa bao nhiêu vị Thánh nhân. Gia đình này không chấp nhận vô kỷ cương như thế. Ta quyết định trả Visakha về lại gia đình của cô ở Saketa,…”.

Nghe trưởng giả nói xong mọi người đều hốt hoảng trước quyết định của ông.

Riêng Visakha với vẻ mặt bình tĩnh, điềm đạm lễ phép chắp tay thưa: “Con thưa cha Migara và tất cả gia đình, xin cho con được bày tỏ ạ. Con còn nhớ khi cha cho 3 trưởng lão đi tìm vợ cho phu quân Punna Vaddhana. 3 vị trưởng lão đó đã hứa với cha mẹ con rằng, cha mẹ Migara sẽ tôn trọng tín ngưỡng của con và cũng yêu cầu con sẽ tôn trọng tín ngưỡng của gia đình Migara này. Con cũng không biết rõ tín ngưỡng của gia đình Migara này là như thế nào. Chỉ nghĩ đơn giản là tín ngưỡng thì chắc cũng là thờ thần thánh trên trời cao vậy thôi. Con đã bày tỏ sự tôn trọng tín ngưỡng của gia đình Migara bằng cách mấy ngày nay lo phụ việc nấu nướng và bày biện với mọi người trong nhà. Nhưng hôm nay, điều con bất ngờ là các đạo sĩ lại lõa thể. Đối với một tiểu thư danh giá như con là con của thị trưởng Dhananjaya tại xứ Saketa suốt đời chưa ai dám xúc phạm con, chưa ai dám bỡn cợt trước mặt con, chưa ai dám nói dối với con, chưa ai dám nhìn thẳng vào mặt con khi nói chuyện.

Vậy mà hôm nay, con phải chứng kiến các đạo sĩ lõa lồ không mảnh vải che thân, phơi ra những gì mà chỉ những kẻ điên mới làm như vậy”, Visakha bày tỏ và chấp tay cúi đầu xin lỗi khi phải dùng từ như vậy.

Rồi cô bình tĩnh nói tiếp: “Con cũng không biết là các đạo sĩ đã tin theo truyền thuyết nào để cư xử kỳ lạ như vậy. Nếu nói rằng con người cần phải sống đơn giản để thoát khỏi đau khổ thì không thể đơn giản đến mức xúc phạm mọi người như thế, phơi bày những bộ phận bày tiết thì chỉ có thể là xúc phạm mọi người chứ không phải là Thánh nhân”.

Rồi cô hỏi như không hỏi: “Các vị đó dám nhịn ăn để được gọi là sống đơn giản không ạ? Không, các vị vẫn phải ăn và thậm chí phải ăn cho ngon. Con đã cố gắng nấu thật ngon và chẳng vị nào từ chối vì lý do để được sống đơn giản cả. Nếu các vị còn phải ăn và chấp nhận ăn ngon thì liệu cái chủ trương sống đơn giản hết mức đến nỗi không mặc gì cả có thật sự đúng không? Con không tin sống đơn giản là phải lõa thể. Con hiểu rằng sống đơn giản là đừng làm phiền lòng người khác, đừng làm bận tâm người khác. Nếu ta muốn thoát đau khổ thì ta đừng làm cho người khác đau khổ. Ta đừng tham đắm thế gian phù du. Ta đừng thấy mình là quan trọng.”

Ngừng một chút rồi Visakha trầm giọng nói: “Con có tín ngưỡng của mình, con có bậc đạo sư của mình. Con cũng được 3 vị trưởng lão của dòng họ Migara hứa là tín ngưỡng của con sẽ được tôn trọng tại gia đình Migara này và con yêu cầu tín ngưỡng của con được tôn trọng.

Thứ nhất, tín ngưỡng con bảo rằng, một người đi đúng chánh pháp sẽ là người có oai nghi đáng kính và một trong những oai nghi đó là trang phục kín đáo.

Thứ hai, tín ngưỡng của con bảo rằng, nguyên nhân của đau khổ là do chấp ngã và vô minh nên phải tu tập theo Bát Chánh Đạo mới có thể diệt được chấp ngã và vô minh.

Thứ ba, tín ngưỡng con bảo rằng, mọi chuyện trên đời đều do luật nhân quả nghiệp báo chi phối nên ta phải khôn ngoan tu tập 3 nghiệp thân khẩu ý cho thiện lành để tránh quả báo đau khổ về sau.

Thứ tư, tín ngưỡng con bảo rằng, nếu ta đem tâm hồn của mình mà tôn trọng đúng bậc Thánh nhân cao quý thì phước đức là vô lượng ở mai sau. Còn nếu ta uổng công cung kính nhằm những kẻ phàm phu giả dối thì nhọc sức mà chẳng có gì.”

Sau khi nói tình lý, bày tỏ hết quan điểm của mình, với phong thái tự tin, Visakha nói: “Còn bây giờ, con không phải là một cô gái bình thường để cha mẹ muốn đem về thì đem, đuổi đi thì đuổi. Con là tiểu thư danh giá của thị trưởng xứ Saketa. Nếu ai làm gia đình con bị mất danh dự thì chuyện này sẽ được đưa lên đức vua Pasenadi phân xử. Con sẽ không đi đâu hết cho tới khi chính những vị trưởng lão của 2 bên gia đình nói chuyện phải trái với nhau. Mà nếu 2 bên gia đình không giải quyết được thì chuyện này xin được đưa lên đức vua Pasenadi phân xử”.

Trước những lời lẽ tình lý của Visakha và vị thế to lớn của gia đình cô, trưởng giả Migara có vẻ hơi sợ, đồng thời cảm thấy bản thân cũng có gì đó sai sai nên hạ giọng nói: “Ờ, ờ thôi, ta sẽ hỏi ý kiến của các vị trưởng lão dòng họ sau. Còn bây giờ con nói đạo sư của con đã dạy con như thế, vậy đạo sư của con là ai?”.

Visakha chấp tay cúi đầu lễ phép nói: “Thưa cha Migara, đạo sư của con là Thế Tôn Gotama, đến từ xứ Sakiya, là Thầy của vua Pasenadi, cũng là Thầy của vua Bimbisara. Các đệ tử của Thế Tôn Gotama hầu hết là các bậc Thánh nhân A La Hán, có đức hạnh cao siêu, có trí tuệ sâu thẳm, có thần thông quảng đại. Hiện nay, Thế Tôn Gotama đang ngụ tại Tinh xá Kỳ Viên, bên ngoài thành Savathi này.”

Nghe Visakha nói, mọi người đều tròn mắt lắng nghe. Rồi ông Migara tiếp lời: “Ta cũng nghe nhiều người ca ngợi Thế Tôn Gotama, nhưng ta nghĩ con người cần phải trung thành. Ta đã có đạo sư Nigantha rồi thì không nên tìm bậc đạo sư nào khác. Nhưng để bày tỏ lòng tôn trọng đối với tín ngưỡng của con, ta cho phép con thỉnh đạo sư của con là Thế Tôn Gotama về đây cúng dường thọ thực, cũng giống như ta đã thỉnh các vị đạo sư Nigantha về cúng dường vậy.” Ông Migara vừa dứt lời, mọi người reo ồ lên và không khí bất ngờ hết căng thẳng. Visakha bước đến bên trưởng giả Migara quỳ xuống chấp tay tạ ơn ông rồi cùng gia nhân đến Tinh xá Kỳ viên thỉnh mời Đức Phật và các vị Tôn giả, Tăng Ni đến gia đình chồng cô để thọ thực.

Buổi sáng ở kinh thành, Đức Phật và chư Tăng Ni đi trên đường. Đức Phật đến cổng nhà trưởng giả Migara, mọi người ra tiếp đón. Kế đó, Đức Phật và chư Tăng Ni ngồi theo các dãy bàn đã soạn sẵn. Đức Phật và các chư Tăng Ni rửa tay chân. Sau đó, Visakha và chồng Punna Vaddhana thỉnh Đức Phật cùng chư Tăng Ni thọ thực. Thọ thực xong, trừ ông Migara thì cả nhà Migara đều kéo ra ngồi dưới đất để nghe Phật thuyết giảng.

Đức Phật nói: “Này các gia chủ của dòng họ Migara, trên thế gian có những người đi từ tối ra sáng. Ngược lại cũng có những người đi từ sáng vào tối. Này các gia chủ, thế nào là đi từ tối ra sáng? Đó là người biết từ bỏ tham, từ bỏ sân, từ bỏ si. Đó là người tin có nhân quả nghiệp báo rồi tác thành nhiều thiện nghiệp. Đó là người biết tu tập thiền định tọa thiền để tịnh hóa nội tâm mình.

Này các gia chủ, trong khi có những người luôn có thức ăn ngon mới vừa nấu từ bếp xuống thì cũng có những người tìm thức ăn vất vả, chỉ ăn những thức ăn mà họ lấy được từ bát thừa của người khác để lại. Người nào quá khứ biết bố thí cúng dường thức ăn cho các bậc hiền, cho chúng sinh đói khổ thì nhiều đời, nhiều kiếp được ăn các thức ăn mới nấu. Còn những ai quá khứ cứ sợ người khác giành thức ăn của mình, thì nhiều đời phải chịu cảnh đói ăn.

Này các gia chủ, trong khi có những người mỗi khi có mặt ở đâu thì được nhiều người vây kín quý thì ngược lại cũng có những người có mặt ở đâu chẳng ai đoái hoài. Người nào trong quá khứ biết cung kính các bậc Hiền Thánh chân chính thì kiếp này luôn được tôn trọng. Người nào không biết cung kính các bậc Hiền Thánh chân chính thì kiếp sau chẳng ai đoái hoài.

Này các gia chủ, trong khi có người mạng chung sinh về cộng trú nơi cõi trời Tam Thập Tam thì ngược lại có những người mạng chung về đọa xứ như địa ngục ngạ quỷ súc sinh. Nếu ai trong hiện đời biết tu tập tam nghiệp, khẩu ý thuần thiện, chẳng những hành vi lời nói, mà còn trong ý nghĩ sâu kín vẫn chỉ có điều tốt.

Vì vậy chỉ làm đẹp lòng mọi người chung quanh, thì khi mạng chung sẽ hóa sinh về thiên giới. Ai hiện đời không biết tu tập thân khẩu ý cho thuần thiện, xấu từ ý nghĩ cho đến hành vi, chỉ làm khổ mọi người chung quanh, thì khi mạng chung sẽ sinh về địa ngục ngạ quỷ, súc sanh.

Này các gia chủ, trong khi có những người được giao du kết bạn các người bạn hiền thiện, thì ngược lại, có những người chỉ gặp bạn xấu làm khổ lẫn nhau. Nếu kiếp xưa biết khuyên bảo người thân của mình đi theo chánh pháp thì những kiếp sau có quyến thuộc hiền thiện sum vầy. Nếu kiếp xưa xúi giục kẻ khác làm điều bất thiện thì kiếp sau bị thân quyến bạn bè gây cho đau khổ.

Này các gia chủ, trong khi có những người có duyên gặp được minh sư chánh pháp thì cũng có những người chỉ gặp tà sư, tà pháp sai lầm. Người gặp được minh sư chánh pháp thì càng tu càng có trí tuệ, phước đức.

Còn người gặp phải tà sư thì càng tu càng trở nên mê tối, bạc phước dần. Nếu kiếp xưa người nào gặp được bậc Thánh mà biết đảnh lễ cung kính thì đời đời có duyên với các bậc minh sư. Còn ai gặp được các bậc Hiền Thánh mà thờ ơ thì đời đời chẳng còn duyên với các bậc minh sư nữa.

Này các gia chủ, khi chúng sinh gây một ác nghiệp làm cho chúng sinh khác đau khổ thì quả báo trở lại là sự bức não khốn khổ. Bây giờ muốn hết cảnh khổ đó thì phải biết nhận lỗi về mình và làm các việc thiện để đền bù lại. Nhưng này các gia chủ, đó không phải là cách giải thoát tất cả đau khổ luân hồi sinh tử. Chúng sinh chìm trong luân hồi đau khổ vì vô minh chấp ngã. Muốn diệt trừ vô minh chấp ngã thì phải tu tập Bát Chánh Đạo. Này các gia chủ, Bát Chánh Đạo là….

Trong khi mọi người chăm chú lắng nghe thì ở phòng trong, trưởng giả Migara cũng núp một góc để nghe những lời Phật nói. Rồi bất chợt ông như vỡ ra, bừng tỉnh tất cả mọi điều. Ông chắp tay, hai hàng nước mắt lã chã lăn dài trên khuôn mặt.

Kết thúc bài pháp, khi Đức Phật nói: “Đó là con đường để thoát khỏi luân hồi sinh tử, đạt được giác ngộ cao siêu”, thì trưởng giả Migara vừa chấp tay vừa khóc bước từ trong ra ngoài thưa: “Bạch Thế Tôn Gotama, con như người trong bóng tối được bước ra ánh sáng, như người mù vừa được có mắt trở lại, như người què vừa được đôi chân khác. Con đã thấy rõ những gì có sinh đều có diệt. Con có lòng tin chánh pháp của Thế Tôn tuyên thuyết là chân lý. Bạch Thế Tôn, con có lòng tin Thế Tôn là Bậc Chánh Đẳng Giác. Con có lòng tin những vị đệ tử theo Thế Tôn là các bậc Hiền Thánh giữa đời. Con xin quy y Thế Tôn, quy y giáo pháp, quy y chư Tăng, từ nay cho đến mạng chung con trọn lòng quy ngưỡng.”

Rồi ông quay sang Visakha nói: “Này Visakha, như người vào ở cùng một nhà liền biết ai là người nhà của mình. Cũng vậy, khi ta bước vào trạng thái nội tâm này thì ta hiểu con đã vào đây rất lâu. Ta hết sức biết ơn con đã cho ta cơ hội để lĩnh ngộ được chánh pháp của Thế Tôn. Con như người mẹ đã sinh ra ta lần nữa. Này Visakha, tuy con là con dâu của ta, nhưng bây giờ thực lòng ta biết ơn con không khác một người mẹ. Từ nay xin mọi người hãy gọi Visakha là mẹ của Migara.”

Ông Migara vừa dứt lời thì mọi người trong nhà đều tròn mắt ồ lên kinh ngạc. Và họ lại càng tiếp tục bất ngờ hơn khi nghe trưởng giả Migara nói sẽ giao tài sản của dòng họ Migara này cho cô quản lý. Vì ông tin rằng tài sản vào tay cô sẽ được sử dụng hợp lý nhất. Visakha chấp tay im lặng.

Cả nhà Migara quỳ lễ Phật rồi tiễn Người và chúng Tăng Ni ra về. Ban đêm ở Tinh xá Kỳ Viên, Tôn giả Sariputta gọi Rahula đến và nói: “Này Rahula, con nay đã cao lớn như một thanh niên trưởng thành thực thụ. Ta sẽ nói với Tôn giả Upali cho con được danh hiệu tỳ kheo chính thức chứ không còn là sa di nữa. Suốt thời gian qua con vô cùng vất vả để bảo vệ Thế Tôn và Tăng đoàn dù tuổi còn nhỏ. Công đức con thật là nhiều. Thời gian này rảnh rỗi, con cố gắng tọa thiền nhiều nhé!” Rahula chắp tay vâng lời rồi tâm sự với Tôn giả về công phu thiền định cứ tiến lui của mình.

Tôn giả Sariputta ngồi lắng nghe và chia sẻ rằng: “Này Rahula, ai tu tập cũng bị tiến rồi lui mãi như vậy. Nhưng nếu kiên nhẫn mãi thì có khi bất ngờ vượt lên chứng quả Thánh. Nhân duyên thật sự không thể nói trước được.”

Rahula lại chắp tay hỏi Tôn giả về những lời sáng nay trưởng giả Migara nói, do thấy kỳ và chưa hiểu lắm. Tôn giả Sariputta từ tốn giải thích: “Này Rahula, đó là khi trưởng giả núp sau tấm vách nghe Thế Tôn thuyết pháp rồi bất ngờ chứng quả Thánh Tu Đà Hoàn. Khi Chứng rồi thì ông mới nhận ra con dâu Visakha cũng đã chứng quả Thánh này từ lâu rồi. Ông nói vào nhà rồi biết người cùng ở trong nhà là vậy đó. Còn việc ông kêu Visakha như mẹ của mình vì cảm xúc khi chứng quả Tu Đà Hoàn lớn quá, khiến ông vượt qua sự phân biệt của thế gian để bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng đối với Visakha.”

“Nhưng việc này rồi sẽ ổn thôi vì khi Visakha sinh đứa con đầu lòng sẽ bàn với chồng đặt tên con theo tên ông nội là Migara. Lúc đó mọi người sẽ hiểu mẹ của Migara là mẹ của đứa con đầu lòng đặt tên trùng với ông nội vậy thôi”,

Tôn giả cười nói. Rahula cũng phá lên cười vang rồi chắp tay nói tiếp: “Thưa Tôn giả Sariputta, hồi ở Kosambi, chư Tăng bị chia làm hay phe, một phe theo chủ trương lấy giáo pháp làm trọng, một phe chủ trương lấy luật nghi làm trọng rồi chia rẽ kịch liệt. Thật tình chẳng hiểu làm sao nữa”.

Tôn giả Sariputta trả lời: “Này Rahula, luật nghi chỉ là mới bắt đầu, chẳng bao lâu Thế Tôn còn sẽ chế ra giới cấm nữa. Giới cấm còn nghiêm ngặt, khắt khe hơn luật nghi nữa. Luật nghi chỉ là những quy tắc ứng xử, còn giới cấm là sự nghiêm cấm triệt để, ai vi phạm sẽ bị khiển trách nặng nề.”

“Nào giờ Tăng đoàn thanh tịnh, chỉ cần thực hành theo giáo pháp là chư Tăng có thể tiến đạo nghiêm thân rồi. Nhưng sự tình ở Kosambi thật là nghiêm trọng, cần phải có giới cấm để ép Tăng chúng vào nề nếp khuôn mẫu kỹ lưỡng hơn”, Tôn giả giải thích và nói thêm: “Việc này sẽ là trách nhiệm của Tôn giả Upali. Tôn giả nhiều kiếp quan tâm đến luật nghi phép tắc khuôn mẫu. Kiếp này Tôn giả cũng sẽ là người san định chế tác các giới điều, luật nghi để trình lên Thế Tôn ban hành. Nhờ có giới luật mà Tăng chúng đời đời sẽ ổn định hơn.”

Vì chưa hiểu giới cấm là gì, Rahula chấp tay nhờ Tôn giả Sariputta giải thích. Tôn giả nói: “Này Rahula, ví dụ thế này, luật nghi thì dặn dò một tỳ kheo phải biết đi đứng nghiêm trang khi ôm bát đi khất thực. Đó chỉ đơn thuần là sự hướng dẫn, còn giới cấm là cấm ngặt một vị tỳ kheo đi vào chỗ khuất nói chuyện riêng với phụ nữ. Nếu một vị tỳ kheo đi vào chỗ khuất nói chuyện với phụ nữ thì sẽ bị khiển trách nặng nề. Có những giới cấm mà nếu vi phạm thì sẽ bị đuổi ra khỏi Tăng chúng nữa”.

Rahula lại trầm ngâm hỏi: “Thưa Tôn giả, con cảm thấy mình rất dễ dàng giữ gìn những giới cấm đó. Nhưng không lẽ sẽ có những tỳ kheo sẽ vi phạm giới cấm sao?”

Tôn giả Sariputta trả lời: “Này Rahula, bởi vì con có nhiều công đức ở kiếp trước nên con cảm thấy việc nép mình vào khuôn khổ giới luật là dễ dàng. Nhưng có những người ít công đức ở quá khứ thì tâm họ cứ bị buông lung nghĩ bậy, tâm họ thôi thúc làm bậy rồi họ vi phạm giới cấm”.

Rahula hiểu ra và tiếp tục hỏi: “Thưa Tôn giả, như vậy sức mạnh ý chí để giữ được giới cấm là nằm ở công đức quá khứ à?”

Tôn giả Sariputta không trả lời mà nói: “Này Rahula, những ai không biết kính trọng bậc đáng kính, không biết nâng đỡ người kém cỏi, không biết tán thán kẻ thiện lành thì không đủ phước để có thể giữ được giới cấm. Cái ý chí để giữ giới lại do phước tạo ra chứ không phải tự ta muốn mà được. Không có phước thì không có ý chí, không có ý chí thì tự nhiên người đó không kiềm chế được những ham muốn sâu kín trong nội tâm”.

Rahula im lặng chăm chú nghe rồi tâm sự với Tôn giả rằng mình có một ước ao nho nhỏ là được đến viếng thăm chỗ Thế Tôn tu tập khổ hạnh suốt 6 năm và chỗ Thế Tôn nhập định 49 ngày rồi đắc thành Chánh Giác.Tôn giả Sariputta chia sẻ: “Này Rahula, chẳng bao lâu Thế Tôn sẽ rời Kỳ Viên để về thăm lại Trúc Lâm Tinh xá. Có thể Người cũng sẽ về khu vực Gaya để an cư cho mùa mưa không chừng. Nếu con đi theo Thế Tôn thì con sẽ được ở quanh đấy cả mùa mưa”… Rồi Tôn giả Sariputta ân cần dặn dò Rahula tranh thủ nghỉ ngơi để ngày mai đón tiếp nhiều vị Tôn giả A La Hán về thăm Thế Tôn thật chu đáo.

(file này do nhiều HD đọc xong rồi viết soạn lại cho những HD khác dễ tiếp nhận.

Sẽ có nhiều lỗi chính tả, đánh máy, hoặc câu từ, văn phong khác nhau

xin HD hoan hỷ và ghi chú comment lại lỗi nếu có ạ!)